học cố gắng đề cao lĩnh vực của họ hơn những gì đáng được nhận. Công
bằng mà nói thì giải thưởng này đã được trao cho một số người có công
xứng đáng, ví như nhà tâm lý học tiếng tăm Daniel Kahneman và nhà kinh
tế học lỗi lạc Friedrich Hayek. Nhưng hội đồng xét giải đã lún sâu vào lối
mòn chỉ trao giải Nobel cho những người “mang sự chính xác” đến với quy
trình đó bằng thứ khoa học giả dối và toán học bịp bợm. Sau khi thị trường
chứng khoán sụp đổ, họ trao giải cho hai kẻ chỉ giỏi lý thuyết Harry
Markowitz và Willam Sharpe - hai nhân vật đã dựng nên những mô hình
Plato hoàn hảo dựa trên nền tảng lý thuyết Gauss, góp phần cho sự ra đời
của cái được gọi là Lý thuyết quản lý danh mục đầu tư hiện đại. Đơn giản,
nếu bỏ đi các giả định Gauss của họ và coi giá cả là thứ có tính thang bậc,
bạn chỉ còn lại những lời khoác lác. Hội đồng trao giải Nobel hẳn đã kiểm
tra mô hình của Sharpe và Markowitz - và chúng cũng hiệu quả như những
thần dược được rao bán đầy rẫy trên Internet - nhưng chẳng bộ não thông
thái nào ở Stockhom có suy nghĩ như thế. Và hội đồng cũng chẳng buồn
hỏi ý kiến của chúng ta, những người kiểm chứng thực tế, mà cứ chìm đắm
vào quy trình xem xét chặt chẽ đầy tính hàn lâm, mà xét trong chừng mực
nào đó, có thể khiến cho mọi thứ sai lệch một cách cơ bản. Sau giải thưởng
đó, tôi đi đến kết luận như sau: “Trong cái thế giới mà hai gã đó cũng nhận
được giải Nobel thì mọi thứ đều có thể xảy ra. Ai cũng có thể trở thành
tổng thống”.
Vì Ngân hàng Thụy Điển và Hội đồng bình xét giải Nobel chịu phần lớn
trách nhiệm khi đặt niềm tin vào tác dụng của Lý thuyết quản lý danh mục
đầu tư hiện đại, nên các tổ chức dùng nó như một phương pháp “lách luật”
hoàn hảo. Những kẻ buôn lậu đã kiếm được hàng triệu đô-la từ việc bán
những phương pháp “đoạt giải Nobel” này. Làm sao bạn có thể lầm lạc như
thế? Thật kỳ quặc làm sao, thoạt tiên mọi người trong giới kinh doanh đều
biết ý tưởng đó là lừa đảo, nhưng lại quá quen thuộc với chúng mất rồi.
Alan Greenspan, chủ tịch của Cục Dự trữ Liên bang đã thốt lên, “Tôi thà
tin lời một người có kinh nghiệm buôn bán còn hơn một nhà toán học”. Khi
ấy, lý thuyết quản lý danh mục đầu tư bắt đầu được phổ biến rộng rãi. Tôi
sẽ vẫn nhắc đi nhắc lại ý kiến sau cho đến khi không còn nói được nữa: số