Hỏi: Dấu vết ấy ở đâu?
Đáp: Ở trên đối tượng lục trần. Do sắc mà có cái thấy, do thanh mà có cái nghe,
lục trần là dấu vết ứng dụng của lục căn. Nay muốn nắm được dấu vết của căn thì phải
quan sát cái thấy cái nghe nơi đối tượng sắc thanh. Nên biết rằng công dụng của căn là
công dụng của tâm, căn nhận biết là tâm nhận biết; cái khác nhau là căn có tới sáu công
dụng, mà tâm chỉ có một Bản thể tinh minh. Chư Phật truyền nhau là căn pháp này, các vị
Tổ truyền nhau là Tâm tông ấy. Đó là bí quyết mà các kinh điển chỉ bày để được Căn bản
trí. Pháp ấn truyền trao qua lại các thời đại cũng lấy cái ấy để phát giác sơ tâm. Chứng
ngộ mau hay chậm là vì căn cơ rộng hay hẹp...
Hỏi: Tâm ấn làm sao mà truyền?
Đáp: Đức Thế Tôn đưa lên một cành hoa, Ca-diếp mỉm cười, sau đó các Tổ
truyền lại, gìn giữ, trường hợp khác nhau, chỉ có người giác ngộ mới tự biết.
Hỏi: Tu làm sao?
Đáp: Thôi! Thôi! Đó là phương pháp, Thiền sư Đạo Xuyên nói:
Tri âm, tự khắc tùng theo gió,
Trăng trong gió mát đất trời nhàn.
Lại nói:
Nắm được ở tâm,
Ứng được nơi tay
Tuyết gió hoa trăng
Trời đất lâu dài.
Cứ hễ canh năm gà gáy sáng,
Xuân về hoa núi nở ngàn nơi.
Hỏi: Mục đích tối hậu là gì?
Đáp: Hòa thượng Phổ Hóa nói: “Tìm chỗ đi tới không được...” Thôi xin chào, xin
chào! Có bài kệ về pháp như sau:
Vạn pháp tuy nhiều không đếm xiết
Chung qui cũng chỉ thức căn trần.
Huyễn duyên dư ảnh dù không thực
Chân tri chánh kiến vẫn bao dung.
Gặp thầy chỉ dạy đường mê ngộ
Thấy Phật tìm ra lẽ sắc không
Nếu muốn lên mau bờ bến giác,
Con đường trước mặt chớ lần khân.
Năm 1843, Sư sáng tác sách Tâm Kinh Trực Giải. Sư có niêm tụng đề tài Thuần-
đà như sau:
Niêm:
Hay lắm, Thuần-đà!
Hay lắm, Thuần-đà!
Tụng: