đạo quí tự mình tham cầu, tự mình giác ngộ, chẳng phải do ở người khác, do ở sự vật
vậy. Chẳng thấy Bàng Công hỏi Mã đại sư rằng: “Cái người chẳng làm bạn cùng vạn
pháp ấy, là người thế nào?” Đại sư nói rằng: “Bao giờ ngươi uống một hơi hết cả nước
sông Tây Giang, ta sẽ nói với ngươi.” Lời nói ấy, có phải là câu trả lời chăng? Hay tỏ ra
một cơ vi mầu nhiệm gì khác chăng? Hay chỉ thẳng cái người chẳng cùng vạn pháp làm
bạn chăng? Hay có cái bí mật chẳng truyền, ngụ ở trong ấy chăng? Thử đem ra suy gẫm
từng lẽ, tìm cho đến cứu kính; chẳng khá xuyên tạc một cách cưỡng ép, đem ý thức riêng
mà giải nghĩa quấy quá, lại chẳng nên nhất thiết bỏ qua; nên làm sao trong bận rộn cũng
cứu kính như thế, nhàn hạ cũng cứu kính như thế, dầu gặp cảnh nghịch bế tắc chẳng
thông cũng cứu kính như thế; mặc kệ chỗ sống gần chín, chỗ chín gần sống, lại chớ bàn
đến “con người đi đến cứu kính và câu chuyện cứu kính” ấy là một là hai, là có là không,
là phàm là thánh, là lý là tình, là đời là phép Phật; dụng tâm đến đó, rồi bỗng nhiên
trong trí mở mang rộng rãi, đại giác ngộ và cười xòa lên.
Đến như nói một chữ “ngộ” (biết giác ngộ). Ví dụ: “Như người kia có việc sanh
tử tương quan với người khác, hẹn nhau đến một chỗ nào đó, thương lượng, mới có thể
ổn thỏa được. Đang lúc mờ mờ sáng, ngủ dậy rửa mặt chải đầu, lấy bít tất mang vào,
trong lúc bối rối cấp bách, mang bít tất vào một chân rồi, còn một chiếc nữa chưa thấy;
bèn tìm khắp trong tủ trong rương, lục soát hết các gian buồng, dưới giường trên vách,
không chỗ nào không tìm, tìm đâu cũng chẳng thấy; tức quá, ngồi lại suy nghĩ. Nghĩ mãi
nghĩ hoài, moi óc nghĩ đến chỗ sâu sắc, vẫn nghĩ chẳng ra, bỗng cúi đầu ngó xuống, thấy
hai chiếc tất mang vào một chân! Bèn lột ra, mang qua chân khác và vô cùng khoan
khoái. Mới biết chiếc tất ngay ở chân mình, biết (ngộ) thì dễ dàng như thế. Cho nên
người ta bảo rằng: “Giày sắt bước mòn tìm chẳng thấy, tìm ra chẳng phí chút công phu.”
Tuy căn tánh có kẻ bén người lụt, giác ngộ có kẻ sớm người chầy, nhưng phải cẩn thận.
Giữ lòng mình chớ cho sai lệch, chớ mới hơi thấy biết chút đỉnh, đã cho đúng phải mười
phần; rồi chạy theo lầm lối sai đường, ba lầm bảy lạc; thà như cư sĩ đến nay chưa hiểu
biết chi, còn hơn cái quang cảnh “thừa ba thẹo bốn” vậy. Nếu cầu đến cứu kính, thì phải
cứu kính cho đến đầu đến đuôi, hầu khỏi lầm đường lạc lối. Ví bằng chẳng xua đuổi ngày
thường nghe thấy, nửa phải nửa chẳng, để gia tâm tham cứu một cái chỗ đại định, thì chỉ
thành một tấm gương lờ mờ, mà tự mình cho là sáng lắm, có thể thấy được nước ao trong
trẻo, không sóng không mòi, trăng sáng giữa trời, không mây không bụi. E trong kinh
tạng đức Như Lai của ta không có cái pháp như thế. Nếu chẳng trừ bỏ hết cái tập khí
trước kia, cho rằng “đã thấy được thông suốt không còn gì chẳng phải”, thì cho người
thật đến địa bộ ấy, cũng chỉ như ao nước tù, chẳng có rồng ở, tức còn mơ màng trong
sanh tử luân hồi vậy. Cái bệnh tối kỵ của kẻ tham thiền học đạo, ở cả trong chữ “minh”
(sáng), nằm che trước mắt rồi, lầm nhận “bệnh” làm “thuốc” vậy. Nếu lấy việc bổn phận
làm việc cần kíp, mặc kệ thiền đạo sự lý, lòng lưu luyến, ưa với chẳng ưa; chỉ chuyển
mình một cái thì thiền đạo sự lý, lòng lưu luyến, ưa ghét, tự nhiên trên mắt quét sạch một
từng mây, chẳng bị sáng mờ chướng ngại. Chẳng thế thì một chữ “Phật”, ta cũng chẳng
ưa nghe. Vân Môn nói được, cư sĩ nói chẳng được, phải chờ đến khi thấy rõ một chân
mang hai chiếc bít tất, lột ra mang lại, tự do thẳng bước tiến lên mới tin lời của Lão tăng
nói chẳng sai vậy. Chẳng thế cũng ví như ngồi ở bên giỏ cơm mà cứ kêu đói bụng vậy.
Xin chớ chấp mấy lời đường đột. Thong thả sẽ còn thư sau tiếp theo.
(Trích Hải Ngoại Ký Sự trang 207-209 do Ủy ban
phiên dịch sử liệu Việt Nam Viện đại học Huế)