THIỀN SƯ VIỆT NAM - Trang 265

*

* *

Lại một bức thơ, Sư gởi cho cư sĩ Nhiếp Chi Hoàng, viết trong cơn mưa lạnh, và

bảo các học trò:

Sách vốn chẳng khá chẳng học, đạo càng chẳng khá chẳng sáng; người sáng đạo

tuy chẳng tập văn tự nhưng vẫn thường thông thái; nếu chẳng sáng đạo tuy chuyên công
học tập văn tự, vẫn hay lý luận cưỡng hợp mà thôi. Tuy câu nói nghe hay ho, nhưng
nghĩa không thấu đáo, điều ấy đã từng xảy ra. Xưa Tử Chiêm học sĩ (Tô Đông Pha) làm
văn, hạ bút nên lời, chữ tuôn ra thao thao theo ý nghĩ, như gió bay, như nước chảy, phô
diễn một cách tự nhiên. Nhưng đến lúc theo ý riêng thuyết thiền, ông có viết một bài bạt
sau bộ Kim Kinh (Kinh Kim Cang), chẳng hiểu rằng kinh ấy, chẳng phải có thể thấy bằng
sắc, nghe bằng lời, lại phán đoán rằng: “Chỉ được nửa bộ”, thế là chỗ cưỡng hợp của ông
vậy. Đã tự biết rằng: Ngũ Tổ Giới tái lai, sao lại quên hẳn bổn phận, trở lại hỏi Tham
Liễu

(1)

“Thác sắc núi, tiếng khe mới xưng ngộ đạo”? Ấy là chỗ cưỡng hợp của ông vậy.

Trong bài “Kim Sơn Thù Tứ Đại Ngũ Uẩn”, ông muốn đem đai ngọc trấn sơn môn, nhưng
luôn luôn dây xỏ mũi bị nắm trong tay người khác, chỉ vì từ trước ông chỉ dùng ý thức
thông minh ức đạt nghĩa lý, chưa từng dùng đạo để đánh tan sự chướng ngại của cách ấm,
cho nên hoảng hốt chẳng thấy rõ đoan đích vậy. Thần Tú đại sư ở trong Hoàng Mai Hội,
làm thủ lãnh tám trăm long tượng, nghe rộng nhớ nhiều, ai chẳng suy tôn Ngài là ngôi thứ
nhất. Ngài làm câu kệ rằng: “Thân tợ bồ-đề thụ” (mình tợ cây bồ-đề). Bồ-đề theo tiếng
Phạn là chánh tri, cũng gọi là chánh kiến, hư linh không thể chất, chỉ có tính viên minh,
hoặc lấy bồ-đề chỉ cho mặt trăng, chớ cùng với “thân” có giống gì đâu, huống chi lìa bỏ
chánh tri chánh kiến mà nói bồ-đề, thì bồ-đề há có mắt tai mũi lưỡi, xương máu tay chân,
mà ví với thân người được sao. Ấy là Đại sư nói cưỡng hợp vậy. Lại nói rằng: “Tâm như
minh cảnh đài” (lòng như đài gương sáng), chẳng kể sự lý hư thực dưới chữ “minh cảnh”
hạ một chữ “đài” làm vận chân, để chữ “cảnh” hư, chữ “đài” thực, rồi câu kế nói: “Thời
thời cần phất thức” (buổi buổi siêng lau chùi) ấy là lau chùi cái đài, chớ không phải lau
chùi cái gương; tức bảo rằng: “tâm” như mặt gương, thế là đã chẳng phải “tâm” rồi,
huống là bảo như cái “đài” của mặt gương, thì với “tâm”, lại có giống nhau chút nào. Tây
Thiên hai mươi tám Tổ, Đông Độ sáu Tổ, đều lấy tâm truyền tâm, chẳng phải lấy gương
truyền gương hay lấy đài truyền đài bao giờ, ấy là cưỡng hợp vậy. Nay trong bài kệ, hai
câu đầu lấy “thân” và “tâm” song khởi, mà câu kết nói “vật sử nhá trần ai” (chớ khiến
dính bụi dơ), chỉ kết câu “minh cảnh”, không hề nói đến “bồ-đề”; thế là chỉ luống chuyên
công văn tự, mà nghĩa lý không được thấu đáo, tức là phụ hội khiên hợp vậy. Than ôi,
trong một bài kệ, chưa bàn đến chỗ luận đạo phải hay trái, chỉ trong chỗ dùng tự đặt câu
đã có đến ba lỗi. Bởi thế Lô Hành Giả (Tổ Huệ Năng) nói lại rằng: “Bồ-đề bản vô thụ,
minh cảnh diệc phi đài” (Bồ-đề vốn không cây, gương sáng chẳng phải đài), dùng bốn chữ
“bản vô, diệc phi”, như một tiếng sét vang dội trong đám mây mù, chớp sáng lòe ra tỏ rõ
chẳng phải “đài” cũng chẳng phải “cây”, chẳng chờ phân biệt mà ai cũng thấy rõ ra như
vậy. Nhưng lại sợ người ta bỏ “đài” bỏ “cây” mà lại nhận cho “bồ-đề” và “minh cảnh”
nhất luật đánh tan luôn, khiến người ta không còn chỗ nào bám víu để làm chân đứng; bảo
là “bản lai vô nhất vật”, chẳng phải minh cảnh bồ-đề; huống “minh cảnh đài, bồ-đề thụ”,
hiện có đến ba bốn vật, thì bảo “bản lai vô nhất vật” sao được. Ý Lô Tổ muốn vì người tìm

(1)

Tống Tăng Đạo Tiềm hiệu Tham Liễu Tử, tu ở chùa Trí Quả ở Hàng Châu. Lúc Tô Thức ở Hàng Châu,

chiêm bao thấy cùng Tham Liễu Tử làm thơ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.