lịch sử. Đến đời Trần, đệ tử Điều Ngự Giác Hoàng rất đông, trong ấy có sáu vị Pháp sư
nổi tiếng, mà chúng ta chỉ thấy vỏn vẹn có một vị ghi trong sử. Đến như phái Trúc Lâm
Yên Tử truyền mãi đến Thiền sư Hương Hải, là từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XVIII,
mà chúng ta chỉ tìm được tài liệu vài ba vị Thiền sư, thật là quá thiếu sót. Nếu đã là thất
truyền thì làm sao có Thiền sư Hương Hải thừa kế phái Trúc Lâm? Bằng sự truyền thừa
liên tục thì sử các Thiền sư ấy ở đâu? Chỉ có thể nói sách sử thất lạc.
Trong quyển sử này, chúng tôi chỉ biên soạn đến tiền bán thế kỷ thứ XVIII, từ đó
về sau vì không đủ tài liệu nên không dám soạn. Dành phần này cho người sau, khi có đủ
tài liệu biên tiếp. Chúng tôi còn gặp khó khăn về niên lịch, vì các quyển sách xưa ghi
chép khác nhau. Chúng tôi cố gắng tra khảo, thấy niên lịch nào hợp lý liền dùng. Nếu có
sơ sót hoặc sai chạy, xin quí vị cao minh phủ chính cho. Những vị Thiền sư từ đời Trần
trở về trước, chúng tôi sắp theo thứ tự thời gian, chớ không theo hệ phái.
Về phần sử có những vị vua được chánh thức thừa kế Thiền tông, nhưng vì nặng
việc quốc chánh nên chúng tôi chẳng ghi. Như vua Lý Thánh Tông là đệ tử Thiền sư Thảo
Đường, vua Trần Thái Tông là người thấu hiểu Thiền tông, có tác phẩm Khóa Hư Lục và
Thiền Tông Chỉ Nam.
Còn một số vị Sư có tiếng mà không biết nằm trong hệ phái nào, hoặc không có tư
cách một Thiền sư, chúng tôi đều không ghi vào đây.
Biên xong quyển sử này, chúng tôi rất tri ân Thượng tọa Mật Thể, ông Ngô Tất Tố
v.v... nhờ các quyển sách của quí vị ấy khiến chúng tôi được dễ dàng nhiều.
Chúng tôi mong một chút công phu nhỏ bé của chúng tôi, giúp phần nào cho
người Phật tử Việt Nam thấy gương tu hành của các bậc tiền bối mà noi theo, và tự thấy
rõ mình đang tu theo hệ phái nào của Phật giáo.
Kính ghi:
THÍCH THANH TỪ
TU VIỆN CHÂN KHÔNG
Ngày 17 tháng 9 năm 1972