mạng. Nhiều đứa trong bọn họ còn rất trẻ, chưa có râu. Hắn đã theo dõi hai
đứa đã ăn nói những lời đặc biệt hung hăng, một đứa tên là Arcade, cư ngụ ở
phố St. Jacques, và một đứa đàn bà, có hạnh kiểm đặc biệt, tên là Zita, cư ngụ
ở Montmartre, cả hai đều có cách sinh sống người ta chưa hề biết.
Ông giám đốc công an thấy sự việc có vẻ khá quan trọng nên xét là cần
phải thương thảo, trước hết, với ông thủ tướng.
Hồi đó, đương ở vào một trong những thời kỳ tai ách của nền Đệ tam
cộng hoà, trong những thời kỳ đó nhân dân Pháp, say mê uy quyền, yêu quý
sức mạnh, tự cho là nguy khốn vì không được chính quyền cai trị đủ nghiêm
ngặt, và lớn tiếng kêu gọi một cứu tinh. Ông thủ tướng kiêm bộ trưởng tư
pháp, không đòi gì hơn là được làm vị cứu tinh mong mỏi. Nhưng, muốn trở
thành cứu tinh, lại cần phải có một sự nguy nan cần phải trừ khử. Vì thế, cái
tin tức có một cuộc mưu loạn, ông lấy làm thú vị. Ông hỏi ông giám đốc công
an về những địa tình và sự quan trọng của sự việc. Ông giám đốc công an
trình bày rằng những kẻ kia có vẻ có tiền, có trí thông minh, có nghị lực
nhưng họ nói nhiều quá, và đông người quá, nên không thể hành động bí mật
và hiệp đồng với nhau được. Ông bộ trưởng, ngả người trong ghế bành, suy
nghĩ. Cái bàn giấy ông đương ngồi trước mặt theo kiểu thời Đế chế, những
thảm dệt cổ kính phủ các tường vách, chiếc đồng hồ quả lắc và những chùm
đèn kiểu thời Trung hưng, tất cả mọi thứ, trong cái phòng giấy cổ truyền này,
đều gợi cho ông những nguyên tắc trị dân lớn, vẫn bất di bất dịch trong quá
trình kế tiếp nhau giữa các chế độ: mưu trí và táo bạo. Sau một giây lát trầm
ngâm, ông kết luận rằng phải để cho cuộc âm mưu tăng trưởng lên và thành
hình, rằng thậm chí có lẽ còn nên nuôi dưỡng nó, trang điểm cho nó, tô vẽ