Booth làm việc để cung cấp thức ăn cho những người nghèo khổ, cho
những kẻ vô gia cư một mái nhà và chia sẻ niềm tin của mình. Tổ chức của
ông không ngừng phát triển. Đến năm 1867, ông đã có mười người làm
việc toàn thời gian. Và đến năm 1874, đã có hơn một ngàn người tình
nguyện và 42 nhà truyền giáo cùng làm việc với ông. Năm 1878, họ tổ
chức lại nhóm và lấy là Hội Cứu tế.
Nhưng điều đó cũng không ngăn chặn được những kẻ phá hoại. Booth bị
nhà cải cách Lord Shaftesbury đặt điều là “phản Chúa”. Và có hẳn một
nhóm đối nghịch được thành lập chỉ để ngăn chặn các hoạt động của Booth
và các đồng nghiệp. Bọn họ tự gọi mình là Hội Phá rối.
Dù bị đối xử rất tàn tệ, các nhân viên và người tình nguyện trong Hội
Cứu tế vẫn tỏ ra nhẫn nại và bền bỉ, và họ đã giúp cho hàng trăm, thậm chí
hàng ngàn người. Họ thường xuyên cải đạo cho những người đã từng quấy
rầy họ.
Năm 1912, William Booth, khi đó 83 tuổi, đứng ra phát biểu lần cuối
cùng trước công chúng và ông đã khẳng định sự cam kết của mình với việc
đầu tư vào con người:
Chừng nào phụ nữ còn phải than khóc như bây giờ, tôi còn đấu tranh;
chừng nào trẻ em còn bị bỏ đói như bây giờ, tôi còn đấu tranh; chừng nào
những người đàn ông còn phải ra tù vào tội như bây giờ, tôi còn đấu tranh;
chừng nào vẫn còn những kẻ nát rượu, những cô gái lầm lạc trên đường,
chừng nào chỉ còn dù là một tâm hồn tối tăm vì không có ánh sáng của
Chúa soi rọi, tôi sẽ còn đấu tranh – và tôi sẽ đấu tranh đến tận giây phút
cuối cùng.
Ba tháng sau, ông ra đi. Một người quan sát kể lại rằng vị “tướng lĩnh”
dẫn dắt Hội Cứu tế trong suốt hơn 30 năm đã được “hóa thân thành
Thánh”.
William Booth đã dành cả cuộc đời của mình để thực hiện Nguyên tắc Vị
tha. Ông luôn đối xử với mọi người tốt hơn là họ đối xử với ông. Kết quả
là, ông đã sống ở mức cao nhất, không những về mặt cá nhân mà cả trong