27
người” [7]. Theo một bài báo khoa học, vào đầu năm 1970, HEW (Sở Y tế, Giáo dục và Phúc
l
ợi) cho biết “có đến 26 % trẻ em tiêm phòng rubella trong chương trình thử nghiệm quốc gia
b
ị đau khớp và viêm khớp”. Nhiều trường hợp đã phải nhờ đến sự chăm sóc y tế, và một số
đã phải nhập viện để kiểm tra chứng sốt thấp khớp và viêm khớp dạng thấp [8]. Tạp chí Giả
Thuy
ết Y Học Anh Quốc (British Journal Medical Hypothesis) báo cáo vào năm 1988 trong
m
ột nghiên cứu trên 200 bệnh nhân bị hội chứng vi rút Epstein – Barr mãn tính [suy nhược
m
ệt mỏi] rằng bệnh là do vi – rút rubella sống được phát hiện trong thuốc tiêm chủng” [9].
Trung tâm Ki
ểm soát dịch bệnh (CDC) báo cáo các tác dụng phụ sau đây của chủng ngừa
b
ệnh quai bị: quai bị (viêm tuyến mang tai); phản ứng dị ứng, bao gồm phát ban, ngứa, và
ban xu
ất huyết; và những hệ lụy ở hệ thống thần kinh trung ương (CNS) như sốt, co giật, điếc
th
ần kinh đơn phương, và viêm não trong vòng 30 ngày kể từ ngày tiêm chủng [10].
Nói m
ột cách ngắn gọn và đơn giản, vắc – xin MMR và bại liệt có thể gây ra các bệnh lý sau:
t
ổn thương não; tê liệt; viêm dây thần kinh; bệnh về mạch bạch huyết; viêm tinh hoàn và
tuy
ến gần tai; điếc một phần; rối loạn, phát ban, đau, cứng, ngứa, và sự đổi màu da; bệnh về
máu; d
ị ứng; viêm khớp; và hội chứng mệt mỏi mãn tính.
Vắc – xin DPT
T
ừ gói thông tin (của hãng sản xuất Lederle) cho vắc – xin DPT (bạch hầu, ho gà, uốn ván)
chúng ta bi
ết rằng “các triệu chứng liên quan đến rối loạn thần kinh” và “hội chứng la hét quá
m
ức” có thể xuất hiện sau khi tiêm vắc xin ho gà. Theo Physicians’ Desk Reference (Năm
1980, trang 1866) chúng ta bi
ết rằng DPT có thể gây ra “sốt trên 39 độ, co giật ... thay đổi ý
th
ức, triệu chứng thần kinh tập trung, la hét từng đợt; ... sốc, suy sụp, ban xuất huyết giảm
ti
ểu cầu”. Trong mục “Tác dụng phụ và phản ứng có hại” liệt kê: “1. Sốt 40,5 độ hoặc cao
hơn; 2. Suy sụp với sự phục hồi nhanh chóng 3. Suy kiệt và mệt lử kéo dài và tình trạng
gi
ống như bị sốc; 4. Khóc thét từng đợt ... ; 5. Co giật phân lập có hoặc không có sốt; 6. Tổn
thương não với những thay đổi về ý thức, triệu chứng thần kinh khu trú, và co giật có hoặc
không có thâm h
ụt thần kinh và / hoặc tâm thần vĩnh viễn; 7. Giảm tiểu cầu ban xuất huyết
(r
ối loạn máu và da). Sự xuất hiện của hội chứng đột tử trẻ sơ sinh [SIDS] đã được báo cáo
sau khi dùng DPT.”
“V
ắc – xin ho gà (một thành phần của kháng nguyên ba trong một DPT) gây nhiều biến
ch
ứng thần kinh, kể cả tử vong. Một số bác sĩ tôi biết (trong đó có tôi) không bao giờ dùng
nó”, bác
sĩ Mendelsohn nói với chúng ta [11]. Bác sĩ Edward B. Shaw, một bác sĩ danh tiếng
c
ủa trường Đại học California, đã tuyên bố (JAMA tháng 3 năm 1975): “Tôi nghĩ việc giảm
b
ệnh ho gà không phải là do công dụng của vắc – xin – đây là một kháng nguyên rất tồi và
c
ực kỳ nguy hiểm, với nhiều biến chứng rất nghiêm trọng” [12].
M
ột số nhà nghiên cứu Australia đã chỉ ra các vấn đề nghiêm trọng khác của vắc – xin bệnh
ho gà. Các bác sĩ Glen Dettman, Archie Kalokerinos, và Munro Ford đã chỉ ra bằng chứng
r
ằng vắc – xin ho gà có liên quan tới sự xuất hiện muộn của bệnh hen suyễn và sốt cỏ khô”
[13].
Bác sĩ John Fox của Trường Đại học Y đã cảnh báo nguy cơ biến chứng bại liệt có thể
x
ảy ra với vắc – xin bệnh sởi, bại liệt, ho gà và uốn ván” [14].