cũng đồng thời vật anh ngã ngửa. Ánh đèn bên trên tiếp tục di động lại gần.
Việt vùng lên bỏ chạy.
Thoát khỏi khe đá, Việt gặp lại Khôi và Lan đứng đợi. Họ rồn rập hỏi :
- Có chuyện chi rứa?
- Cậu nghe ngóng ra sao?
- Còn chiếc “sắc” đâu?
- Rơi mất rồi hả!
Khôi dằng lại cây đèn. Việt hổn hển nói :
- Mau lên có người đang soi đèn đi xuống. Tụi mình chỉ còn cách chuồn
theo lối đường sắt thôi.
Đầu kia, trong khe tối vẳng lên tiếng nói của một người đàn ông. Hắn càu
nhàu bằng giọng nói ngoại lai khó hiểu.
Việt thì thầm.
- Hắn thấy rồi. Chắc hắn vấp phải chiếc ba lô. Thôi, chuồn mau đi!
Cả ba người hấp tấp bỏ chạy. Khôi nói :
- Nắm lấy nhau cho khỏi lạc! Mình cần phải tới khúc quẹo của đường sắt
trong khi gã kia còn mải ngắm chiếc ba lô của Việt!
Việt chống chế :
- Tớ có muốn thế đâu! Tại cái quai nó mắc vào đá đấy chứ!
Lan nói :
- Dĩ nhiên rồi! Cũng như nó đã làm khốn đốn cậu ngoài hàng rào kẽm gai
bữa gặp tui đó tề! Mấy cậu con trai ưa đeo sắc trên vai lắm. Làm như hễ đi
đâu là phải mang theo đủ thứ!
Tới khúc quẹo của đường sắt, Khôi bật đèn, nhưng cẩn thận che bớt ánh
sáng. Chỗ đó là nơi tiếp giáp của nhiều đường ăn thông vào các cửa hầm
khác. Có lẽ đây là những đường hầm đi sâu xuống dưới lòng mỏ. Còn đang
phân vân chưa biết chọn ngả nào thì ánh đèn của gã đàn ông đã tiến tới phía
sau. Hắn đã thấy chiếc ba-lô nên đang lùng kiếm bọn Khôi Việt.
Khôi tắt phụt ánh điện, kéo cả bọn vào một con đường hầm gần nhất. Bước
chân của ba người vang lên trong đường hầm. Thỉnh thoảng họ dừng lại vì
nghe như có tiếng sóng gió gầm thét đâu đây. Chẳng biết đó là tiếng sóng
vỗ hay tiếng gió lùa vào các cửa hầm tạo nên thứ âm thanh u trầm, hun hút?