bảo tránh voi chẳng xấu mặt nào, còn người thì còn của, với lại đầu chạm
mái tranh thì ai chẳng phải cúi ạ!…
Đường Thành công còn chưa hết giận, hầm hầm nói:
– Nang Ngoã ức hiếp người ta quá đáng! Quả nhân thà chết, chứ không
chịu khuất phục!
Viên quan nọ khuyên can mãi không được, liền giấu Đường Thành công,
ngầm giắt ngựa đi dâng cho Nang Ngoã nói rằng của Đường Thành công
dâng tặng. Nang Ngoã được ngựa, hý hửng ra mặt nói:
– Rốt cuộc các người đã phải chịu đựng thua ta…
Hôm sau Nang Ngoã liền tha cho vua tôi Đường Thành công về nước.
Đường Thành công sau khi biết chuyện này cũng chẳng trách móc viên
quan đi theo mình làm gì nữa, bởi ông ta nói không phải không có lý, đành
ngậm đắng nuốt cay, ai bảo mình nước nhỏ quan yếu? Thái Chiêu hầu nghe
thấy thế, nghĩ bụng: – Ta cũng chẳng cần phải ngồi đầy để ấm ức làm gì,
hãy làm sao thoát thân về nước cái đã, rồi sẽ tính sau, thế là cũng nén giận
đem áo da điểu ra tặng cho Nang Ngoã. Ngay lập tức Nang Ngõa đã tha
cho Thái Chiêu hầu về nước. Trên đường về, Thái Chiêu hầu vừa nghĩ vừa
ức, khi đi thuyền trên sóng Hán Thủy sang bờ bắc, đứng ở mũi thuyền, cởi
đôi bạch bích còn lại đeo trên mình ra, vứt đánh “tõm” xuống sông, thề
rằng:
– Không mang quân đánh Sở, không quay về nam nữa!
Đường và Thái, là hai nước láng giềng gần, sau khi vua hai nước trở về
đã chụm đầu bàn bạc, quyết tâm mượn quân Tấn để đánh Sở. Tấn Định
công tâu bày Chu Kính vương. Chu Kính vương vô cùng tức giận, để cho
Tấn Định công ra mặt, liên lạc với mười tám nước chư hầu như Tống, Tề,
Lỗ, Vệ, Trần, Trịnh, Hứa, Tào, Cử, Chu, Đốn, Hồ, Đằng, Khởi, Tiểu Chu
Tử và cả bản thân hai nước Đường Thái nữa, tất cả họp nhau ở Thiệu Lăng,
mọi người tôn nước Tấn lên làm minh chủ, toàn bộ binh mã sẽ do đại
tướng nước Tấn là Tuần Dần chỉ huy và với danh nghĩa quân triều đình,
dọc đường rầm rầm rộ rộ bươn sang đất Sở.