bội bảo Cố Tư Văn: “Chậc, sao lại khấu lệnh gì nữa? Ta làm sao biết được
khẩu lệnh chứ.“
Cố Tư Văn giơ tay ấn đầu An Long Nhi xuống: “Ngươi câm cái mõm lại,
để đấy cho ta...” Cậu ta cao giọng hét lên với Tiêu Triều Quý: “Ngày sau
nếu có đoàn viên, anh em lại hát khúc ca thái bình!“
Giữa chiến trận âm thanh ồn ào náo động, Tiêu Triều Quý không nghe rõ cả
câu dài như vậy, anh ta lại lớn tiếng hỏi: “Hát cái gì?“
Cố Tư Văn quỳ một chân phía sau thuẫn của An Long Nhi chửi bậy một
câu, giơ tay phải lên chìa ra ba ngón, khản giọng gào lên như xé cổ: “Hát
khúc ca thái bình!“
Tiêu Triều Ọuý đã nghe thấy câu này, lại nhìn thấy ám hiệu bằng tay tiêu
chuẩn của Hồng môn, biết là anh em Hồng môn, lập tức nói: “Đừng tiến lên
nữa, bằng không trên lầu sẽ bắn tên, các vị dừng lại đó, để ta tới!” Dứt lời, y
liền dẫn binh lính lom khom tiến về phía An Long Nhi.
An Long Nhi ngoảnh mặt lại nhìn Cố Tư Văn: “Ngươi cũng là người của
Hồng môn à?“
“Cứ coi là thế đi.” Cố Tư Văn trả lời quấy quá. Thì ra phái Giang Tướng
mà Cố Tư Văn theo học vốn là một phân nhánh của Hồng môn, mặc dù sự
tồn tại của bọn họ không trực tiếp vì sự nghiệp phản Thanh, nhưng lại có
quan hệ sâu xa với Hồng môn, thường hay phối hợp với các hành động của
Hồng môn, rất nhiều người trong phái còn là quân sư trong Hồng môn nữa;
trận thế bày bằng chén trà và bài thơ Phượng Hoàng trong phái đều tương
thông với Hồng môn. Hồng binh ở Quảng Đông dùng khăn chít đầu và cờ
màu đỏ làm dấu hiệu, Cố Tư Văn thấy Thượng Đế hội cũng lấy khăn đỏ
làm đặc điểm nhận dạng, thầm đoán rằng ngâm xướng thơ Phượng Hoàng
để nhận sơn đầu không đúng được mười thì cũng phải được tám chín, nên
mới đánh bạo mà đọc ra bài thơ phản Thanh ấy.
Thời bấy giờ, Thượng Đế hội ở Quảng Tây và Hồng môn thường hay có
qua lại, trong hội cũng có huynh đệ Hồng môn đến gia nhập, vì vậy các vị
thủ lĩnh cũng biết chút ít về quy củ trong Hồng môn. Thêm vào đó, Cố Tư
Văn đọc câu thơ “cùng hát khúc ca thái bình” vừa khéo lại họp với khát