khởi nghĩa để từ đó mưu tính tạo ra những cuộc chiến tranh cách mạng, hầu
đánh quỵ hẳn lực lượng cầm quyền. Đường lối này có vẻ ngả theo phương
thức tiến hành của CS Trung Quốc
và khác hẳn phương thức mà các
đảng CS Á Châu khác đã và đang theo đuổi
Giai đoạn phôi thai của CS ở Đông Nam Á được ghi chung vào thời kỳ
giữa Thế chiến I và Thế chiến II. Trong thời kỳ này, CS đã lập đảng ở tất cả
các nước (nếu đảng CS Đông Dương đưọc coi như đảng chung của cả ba
xứ Việt, Lào, Kam-pu-chia) và sau đó đã phát triển mạnh nhờ Thế chiến II.
Thế chiến II là thời kỳ các đảng CS vừa củng cố được cơ cấu lãnh đạo, vừa
tự thực tập đấu tranh vũ trang trên tầm mức nhỏ. Khởi nghĩa có cường độ
cao và chiến tranh thực sự chỉ được tung ra sau thế chiến: Việt, Lào, Kam-
pu-chia được lồng vào cuộc kháng chiến chống Pháp từ 1946, Phi-Líp-Pin
với cuộc nổi dậy năm 1947, Miến, Mã, Indonesia vào năm 1948
Trên một phần tư thế kỷ lẩn quẩn trong cuộc đấu tranh, khi công lúc thủ,
CS Đông Nam Á vẫn chưa nhìn thấy viễn ảnh đoạn chót con đường đã
vạch. Các Cộng đảng Phi, Mã, Indonesia, Miến đã và còn đang bị dồn vào
thế kẹt. Cộng đảng Thái thì mới trong thời kỳ chuyển hướng với chủ trương
đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền và chiến tranh du kích hơn nữa. Chỉ có
CS Việt, Lào, Kam-pu-chia tương đối tiến xa hơn cả; nhất là CS Việt,
chẳng những đã nắm trọn chính quyền một nửa nước mà hiện cũng đang cố
gắng chia sẻ chính quyền ở phân nửa nước còn lại.
Thời Kỳ Phôi Thai Tiền Thế Chiến
Indonesia