quyền Phi đã nại cớ về điều được gọi là mối đe dọa nặng nề của lực lượng
vũ trang CS. Lực lượng này đã được đổi tên một lần nữa thành Tân Dân
Quân, và theo nhà cầm quyền, đã có hoạt động tại 18 tỉnh trong số 67 tỉnh
của Phi. Trong một khu vực ảnh hưởng cộng sản có khoảng 50.000 dân thì
có tới 1.000 quân chiến đấu và 2.000 quân hỗ trợ. Về những con số này,
đảng Tự Do đối lập đã cho là chính quyền cố ý phóng đại để nhân dịp đàn
áp các phong trào chống đối của quần chúng. Dù sao, chắc chắn hoạt động
của cộng sản cũng đã bị thu hẹp rất nhiều trong tình trạng thiết quân luật
hiện nay.
Về các hoạt động của CS Miến Điện, thời kỳ được coi là công tác hoàn
toàn với phe cách mạng dân tộc trong Liên Minh Nhân Dân Tự Do Chống
Phát Xít vỏn vẹn không được hai năm, từ tháng 8 năm 1944 đến đầu năm
1946. Một trong những lãnh tụ Cộng đảng Miến là Soe, khi gia nhập Liên
Minh, đã mưu tính sẽ nắm giữ vai trò then chốt và nhuộm đỏ dần Liên
Minh. Nhưng sau thấy kế hoạch bất thành, Soe liền rút những phần tử thân
tín ra khỏi Liên Minh và lập chiến khu chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Lực
lượng ly khai do Soe cầm đầu được gọi là Đảng Cờ Đỏ.
Thành phần CS còn lại trong Liên Minh quy tụ dưới sự lãnh đạo của Than
Tun và được gọi là Đảng Cờ Trắng. Sau vụ Aung San bị ám sát, khi lập nội
các, U Nu đã không dành một ghế nào cho Đảng Cờ Trắng làm cho Than
Tun bất mãn, rút toàn đảng ra khỏi Liên Minh (tháng 3 năm 1948.) Năm
1948 là năm cả hai đảng CS cùng nổi dậy theo lời kêu gọi trong nghị quyết
của Hội Nghị Thanh Sinh Đông Nam Á Đấu Tranh Cho Tự Do và Độc Lập,
được CS quốc tế tổ chức tại Calcultta vào đầu năm. Trong suốt bốn năm,
hai đảng CS Cờ Đỏ, Cờ Trắng cùng với Tổ Chức Nhân Dân Tự Nguyện
và quân Karen ly khai đã chiếm giữ toàn vùng trung Miến. Nhưng từ
1952, những cuộc hành quân bình định liên tục của quân đội Miến dưới
quyền chỉ huy của tướng Ne Win cùng với những sự chia rẽ giữa bốn nhóm
loạn quân vì tranh chấp vùng ảnh hưởng đã làm cho phong trào suy bại dần.
Một tổ chức cộng sản thứ ba do các dân biểu tả khuynh cầm đầu đã tiếp tục