Dân Việt Nam, thường được gọi tắt là Liên Việt (tháng 5 năm 1946). Mãi
tới tháng 3 năm 1951, khi CS cải danh là đảng Lao động, hai mặt trận này
mới được chính thức kết hợp làm một dưới cái tên chung là Liên Việt.
Tháng 9 năm 1955, CS đã giải tán Liên Việt để thành lập Mặt Trận Tổ
Quốc nhằm phục vụ nhu cầu thống nhất. Cho tới nay, Mặt Trận Tổ Quốc
vẫn là cơ cấu ngoại diện chính của CS; nhưng, để đáp ứng nhu cầu “giải
phóng” miền Nam do đại hội Đảng lần thứ 3 năm 1960 vạch ra, CS đã
thành lập thêm Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Mặt
trận thứ hai này được khai sinh trên giấy tờ ngày 20 tháng 12 năm 1960,
nhưng thực tế hàng năm sau mới tổ chức xong bộ phận trung ương.
CS Việt hiện nay đã đạt tới con số đảng viên trên một triệu. Số đảng viên
trong thế chiến II chưa tới một ngàn, sau cách mạng tháng 8 đã tăng lên
năm ngàn, rồi tới 20 ngàn vào năm 1946. CS đã kết nạp đảng viên mạnh
nhất trong thời kỳ kháng Pháp, thời kỳ đa số nhân dân Việt Nam chỉ tìm
thấy chính nghĩa rõ ràng ở một phe: phe kháng chiến.
Khối Cộng Sản và Đông Nam Á
Trong phong trào Cộng sản Đông Nam Á, CS Việt được coi là có thực lực
nhất, nhưng không có nghĩa là có ảnh hưởng mạnh nhất. Dầu sao cũng còn
các đảng Cộng sản đàn anh Nga và Tàu. Khốn nỗi Nga và Tàu đã can thiệp
vào Đông Nam Á không phải chỉ để tiếp tay cho các đảng CS đàn em phát
triển mà rõ ràng còn để chặn bớt ảnh hưởng của nhau. Tình hình đôi bên
thường vẫn ngang ngửa; mỗi bên có một thế riêng trong vùng.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, CS Việt đã cố đi dây giữa Nga và Tàu.
Người ta đã nói đến phe thân Nga, thân Tàu trong cấp lãnh đạo Đảng, nhất
là trong Bộ Chính Trị, nhưng thực tế không dễ mà phân biệt trắng đen như
vậy. Nếu có thiên trọng thì chỉ là thiên trọng về chính sách, đường lối từng
thời kỳ chứ không hẳn là chuyện cá nhân.