Tại Bắc Hàn và Mông Cổ, chế độ CS đã được tạo dựng bằng ngoại lực;
tại Nhật Bản, Ấn Độ, Tích Lan, CS vẫn còn lẩn quẩn trong hình thái đảng
tranh với các chính đảng không CS khác như kiểu Tây Âu.
Những cuộc nổi dậy của CS Miến, Mã, Indonesia vào năm 1948 là do
ảnh hưởng Hội Nghị Thanh Niên Sinh Viên Đông Nam Á Đấu Tranh Cho
Tự Do và Độc Lập được CS quốc tế tổ chức tại Calcutta vào tháng 2 năm
1948. Dựa vào học thuyết “hai phe” của Mạc Tư Khoa (hoặc đứng vào
hàng ngũ CS, hoặc làm tay sai cho đế quốc) do Andrei Zhdunov đưa ra vào
cuối năm 1947, nghị quyết của Hội Nghị Calcutta đã minh thị con đưòng
các tổ chức CS Đông Nam Á phảI đi là con đường không thoả hiệp và
phương thức tiến hành đấu tranh không gì khác hơn là võ trang.
Văn Tân, bài Lãnh Tụ của Đảng, tập san Nghiên Cứu Lịch Sử , số 10,
năm 1960, Viện Sử Học, Hà Nội.
Vũ Thọ, bài “Quá trình thành lập đảng Vô Sản ở Việt Nam đã được diễn
ra như thế nào?” tập san Nghiên Cứu Lịch Sử, số 71, tháng 2 năm 1965,
Viện Sử Học, Hà Nội.
Luận cương chính trị được trình bày và thông qua tại Hội nghị toàn thể
Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ nhất vào tháng 10 năm 1930.
Tại Sarawak, nhóm Hoa kiều CS có quan hệ tổ chức với CS Mã cũng đã
thành lập Liên Đoàn Chống Phát Xít Sarawak nhằm tuyên truyền chống
Nhật, nhưng hoạt động yếu ớt không đáng kể và về sau đã tự điều lắng.
Trên thực tế, nội các Trần Trọng Kim đã từ chức từ ngày 7 tháng 8 năm
1945 và chỉ còn được lưu lại để xử lý.
Tân Trào là tên Mặt Trận Việt Minh đặt cho Bản Kim Long, thuộc
huyện Sơn Dương, Tuyên Quang.
Theo Trần Huy Liệu ghi lại trong hồi ký Đi Dự Quốc Dân Đại Hội ở
Tân Trào thì không những Hà Nội mà hầu hết các nơi khác cũng vậy, đại
biểu Việt Minh từ Tân Trào về các địa phương chỉ là để tiếp thu thành quả
của quần chúng hơn là lãnh đạo khởi nghĩa. “Nhiều cuộc khởi nghĩa ở các
địa phương đã nổ ra trước khi lệnh khởi nghĩa từ Tân Trào phát đi, cũng
như nhiều đại biểu từ Đại Hội Quốc Dân trở về đến nơi thì cuộc khởi nghĩa
đã bùng lên rồi.”