được đem xuống để trám khoảng trống. Còn tại Thái Lan, chính phủ thân
Nhật Aphaiwong đã rút lui để cho Seni Pramoj, người trở về từ Hoa Thịnh
Đốn, đứng ra lập nội các mới. Nhìn toàn bộ cục diện Đông Nam Á, Mỹ có
thể an tâm vì Anh, Pháp, Hoà và Quốc quân Trung Hoa đều là đồng minh
của Mỹ trong trận tuyến chống Phát xít lẫn trong chiến tranh lạnh với Nga
về sau. Do đó, trong năm đầu hậu chiến, Mỹ hướng nỗ lực vào việc chiếm
đóng Nhật Bản cùng vấn đề lục địa Trung Hoa qua phái bộ Marshall, còn
Đông Nam Á thì ít được chú ý tới.
Tại Phi, Mỹ đã thi hành xong dự định từ trước về việc trao lại quyền chính
trị cho người bản xứ. Ngày 4 tháng 7 năm 1946, Phi-Líp-Pin được công bố
độc lập. Ngay sau đó Phi phải ký với Mỹ một hiệp ước về quân sự với điều
khoản nhượng cho Mỹ duy trì 23 căn cứ hải quân và không quân trên toàn
quần đảo trong vòng 99 năm, và một hiệp ước về kinh tế cho phép các công
ty Mỹ đặc quyền khai thác tài nguyên của Phi và miễn thuế xuất nhập cảng
cho các hàng hoá trao đổi Phi-Mỹ tới năm 1973.
Tại Indonesia, khi Hoà Lan gây chiến và mưu tính đặt lại chế độ thuộc địa,
Mỹ đã phản đối kịch liệt. Sau trận tấn công chớp nhoáng của Hoà vào
Jogjakarta và bắt hầu hết nhân viên chính phủ Sukarno (tháng 12 năm
1948), Mỹ đã vận động Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc lên án mạnh mẽ
Hoà, đồng thời Mỹ cũng đe doạ cúp phần viện trợ (theo kế hoạch Marshall)
cho Hoà. Chính nhờ phần lớn ở những áp lực đó mà Hoà đã lùi bước trong
mưu tính tái xâm lược.
Còn tại Việt Nam, sự thể lại xảy ra khác hẳn. Sau khi Nhật đầu hàng, Hồ
Chí Minh và đảng Cộng Sản của ông ta đã nhanh tay đoạt được chính
quyền. Rồi sau đó, lại nhanh tay loại đưọc phe quốc gia đối lập và nắm
được quyền lãnh đạo kháng chiến chống Pháp. Trước những diễn biến ấy,
lúc đầu Mỹ rất lúng túng, lúng túng vì Mỹ không tiên liệu những phản ứng
cấp thời ở Đông Nam Á lục địa
. Lúng túng hơn nữa vì Mỹ không thể
lấy chiêu bài chống cộng mà giúp đỡ một lực lượng thực dân đang suy tàn.
Nếu giúp đỡ bọn tái chiếm thuộc địa, chắc chắn Mỹ sẽ không thể lôi cuốn