Quyền lợi của Mỹ ở Đông Nam Á rất quan trọng, chắn chắc không người
lãnh đạo nào của Mỹ phải nghĩ tới phủi tay bỏ cuộc. Nixon lại càng nghĩ tới
quyền lợi ấy hơn ai hết; ngay cả đến việc bắt tay với Trung Cộng cũng
không ngoài nhu cầu hiện diện của Mỹ ở nơi này. Ngay từ khi mới ngồi vào
ghế tổng thống nhiệm kỳ 1, Nixon đã ra lệnh duyệt xét toàn bộ chính sách
Mỹ đối với Trung Cộng. Trong nỗ lực hình thành tân chính sách, chủ điểm
mà Nixon đưa ra cho những người phụ trách việc chi tiết hoá (chủ chốt là
phụ tá ngoại trưởng Marshall Green và cố vấn Bạch Cung Henry Kissinger)
là làm thế nào để Mỹ sẽ không là địch thủ số một của Nga hay Tàu, mà
chính mỗi nước ấy sẽ là địch thủ số một của nhau.
Tại Đông Nam Á, Mỹ trù tính Trung Cộng cần có sự hiện diện của Mỹ để
chặn bớt ảnh hưởng của Nga, và Nga cũng cần có sự hiện diện của Mỹ để
chặn bớt sức bành trướng của Trung Cộng. Trong cái thế tam giác Mỹ,
Nga, Tàu ấy, Mỹ sẽ mặc sức thao túng đối tượng chính là các nước, các dân
tộc Đông Nam Á, trong khi Nga và Tàu cứ tự do kềm giữ lẫn nhau: đó là
con đường mà Nixon đã chọn để tiến tới.
[còn tiếp]
Ghi Chú:
Nghị sĩ Mỹ Beveridge, ngày 9 tháng 1 năm 1900, đã tuyên bố rằng Phi-
Líp-Pin sẽ là của Mỹ mãi mãi vì đằng sau Phi là thị truờng Trung Hoa to
lớn (Henri Claude, Où Va L’impérialisme Américain, Paris, 1950). Ngay
khi còn đang bình định Phi, Mỹ cũng đã gửi quân tham dự vụ tám nước tấn
công Bắc Kinh năm 1900, và tới năm 1905 Mỹ lại nhào vào khai thác vùng
Mãn Châu sau chiến tranh Nga Nhật.
Chủ trương Mỹ quyết không nhúng vào việc Âu châu và Âu châu cũng
không được nhúng vào việc Mỹ châu.
Kenneth T. Young Jr., The Southeast Asia Crisis, Oceana Publications,
1966.
Ngay từ 1940, Mỹ đã trù liệu trước là Anh sẽ suy yếu cực độ sau chiến