Buổi trưa ngày Ba mươi Tết, nhà họ Nghiêm từ lớn đến bé đều tập hợp lại
ở gian nhà chính cùng nhau ăn cơm, Nghiêm Hoài Đức vội vã về quê, ông là
người cuối cùng về, theo khuôn phép mà châm trà cho cha mẹ trước tiên, sau
đó lần lượt bắt chuyện một vòng với mọi người chung bàn, duy chỉ hờ hững
với một mình Lý An Dân. Lý An Dân là phận con phận cháu, vẫn phải chủ
động một chút, thế là cô bưng trà rót nước, còn kính cẩn hô lên: “Ba.”
Nghiêm Hoài Đức làm như không nghe thấy, quay đầu hỏi chuyện con
trai chú út, đừng nói trong lòng Lý An Dân có cảm giác gì, mà sắc mặt tất cả
mọi người đều chẳng dễ coi chút nào, không khí trở nên ngột ngạt khó tả. Cha
cô là con trai trưởng trong nhà, các em trai em gái đều từng được ông chăm
nom, ai nấy đều nhìn nhau, chẳng biết phải mở miệng nói thế nào, đây là vấn
đề giữa hai cha con, bọn họ không có tư cách xen vào, với lại ai mà biết được
lúc này nói thêm gì vào có làm cho Lý An Dân khó xử hơn không?
Ông nội nện mạnh cây gậy ba-toong xuống sàn nhà, không nói gì, nhưng
rõ ràng là tức giận rồi, lúc này Nghiêm Hoài Đức mới nâng ly trà mà Lý An
Dân đưa lên nhấp một ngụm, hỏi một câu như chẳng để tâm chút nào: “Ở bên
trường kia có quen không? Có đủ tiền tiêu không?”
Lý An Dân vội vàng đáp rằng rất tốt, tiền cũng đủ tiêu xài, Nghiêm Hoài
Đức chẳng qua cũng chỉ “Ừ!” một tiếng, không thèm nói gì với cô nữa, bữa
cơm trưa này ăn trong tình trạng vô cùng khó chịu. Bà nội biết cô không thoải
mái, cơm nước xong xuôi liền kéo cô qua tâm sự, lần nữa nhấn mạnh rằng cha
cô là do thấy cảnh nhớ người, bởi vì Lý An Dân như cùng một khuôn đúc ra
với mẹ cô.
Nếu như Nghiêm Hoài Đức đối xử với ai cũng thờ ơ như vậy thì không
nói, cha mẹ sinh con trời sinh tính mà, nhưng vấn đề là tính cách của cha cô từ
đầu chí cuối chẳng có gì đáng để phàn nàn cả. Người làm ăn mà, rất biết xử sự
đối đãi với mọi người, bên ngoài hòa nhã dễ gần, trong nhà với ai cũng thân
thiết, vậy mà với con gái của mình thì lại ghẻ lạnh đến ghê người, cho dù