vận động bóng đá.
Đang nghe hát, Paul bỗng nhớm chân vì có tiếng kêu lè xè của chiếc máy
truyền tin dã chiến đặt sát bên khuỷu tay. Liếc xuống đồng hồ tay, anh thấy
gần mười giờ. Không dừng lại để nhắc ống nghe, anh cầm xấp hồ sơ trên
bàn lên, lật đật chạy ra giao thông hào dẫn tới hầm chỉ huy trưởng.
Trên trụ cửa hầm, người ta mới gắn một tấm bảng nhỏ ghi rõ cấp bậc của
De Castries lúc này là thiếu tướng. Ông vừa được những thượng cấp bất lực
ở Hà Nội thăng quân hàm mấy hôm trước, cùng với hết thảy các chỉ huy
trưởng đơn vị ở Điện Biên Phủ. Thế nhưng các cầu vai mới toanh và sâm-
banh thả dù xuống cho họ uống mừng cấp bậc mới, mỉa mai thay, lại rơi
vào khu vực chiến hào của đối phương.
Vô tới trong hầm, Paul, lúc này là đại tá thực thụ, thấy De Castries ngồi thờ
thẩn với điếu thuốc lá ngậm hờ hửng trên miệng. Mặc quân phục màu nâu,
đội mũ nhà binh bằng vải mềm màu nâu đỏ không vành và có lưỡi trai, kiểu
đặc biệt của Trung đoàn Ma-rốc ông từng làm chỉ huy trưởng, De Castries
chào viên sĩ quan tham mưu trưởng của mình bằng một cái gật đầu lơ đãng.
Mắt nhìn xuống bản ghi nhận tình hình mặt trận, Paul báo cáo:
- Lúc này địch tập trung hai Sư đoàn 312 và 316 ở cạnh sườn phía đông của
ta, cùng với hai trung đoàn tăng phái của Sư đoàn 308. Chúng chỉ giữ lại
một trung đoàn đối diện cạnh sườn phía tây của ta. Tổng cộng dường như
địch có khả năng sử dụng khoảng ba mươi lăm ngàn quân. Pháo binh địch
hiện vẫn là mục tiêu cho không lực ta. Lúc này, có bằng chứng rõ rệt rằng
địch đang bố trí và sẽ dùng nhiều hỏa tiễn mới, loại Catiusa của Nga, để
phóng vào chúng ta.
Nét mặt và giọng nói của De Castries mang vẻ cam chịu:
- Còn sức mạnh của chúng ta ra sao? Nghĩa là, nếu dùng chữ "sức mạnh"
đúng với ý nghĩa của nó.
- Tối đa bốn ngàn người còn khả năng chiến đấu.
Paul ngừng nói, trở mu bàn tay lên chầm chậm quệt ngang khuôn mặt đẫm
mồ hôi. Đầu anh nhức như bị nện búa, mắt thấy lập lòe chớp nháy và thị
giác thỉnh thoảng mờ hẳn:
- Nhưng ngay cả lính dù và lính Lê dương gan góc nhất cũng không thể