TRÊN CẢ GIÀU CÓ - Trang 29

Tải Ebook miễn phí tại: Chiasemoi.com

Thực tế, những người dân địa phương ở đây vẫn còn than khóc. Đến vào dịp lễ Sabbath của người Do Thái, chúng tôi

dừng chân xem cảnh người người kéo nhau về Bức Tường Phía Tây và cầu nguyện, nó là dấu vết còn sót lại của khu

Đền Thứ Hai đã bị quân

La Mã tàn phá vào năm 70 sau Công Nguyên. Cách đó chỉ vài bước chân là một trong những điện thờ đẹp nhất thế giới,

Dome of the Rock đầy uy nghi với mái vòm dát vàng 24 ca-ra.

Gần đó là Nhà thờ Ngôi Mộ Thánh (Church of the Holy Sepulchre). Theo truyền thuyết, nó được dựng nên trên nền đất

nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh, chôn cất rồi phục sinh.

Thật ngạc nhiên khi nhìn tận mắt ba thánh địa thiêng liêng của Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo giao thoa ở cùng

một địa điểm. Dù sao thì thời đó, ba tôn giáo độc thần lớn nhất thế giới này đều có chung nguồn gốc. Do Thái giáo dựa

trên kinh Cựu Ước, Cơ Đốc giáo dựa trên kinh Cựu Ước và Tân Ước, Hồi giáo dựa trên kinh Cựu Ước, Tân Ước và

Qur’an.

Đương nhiên, trong suốt hơn 1.000 năm qua, lòng sùng kính đã khiến những con người nơi này luôn trong tình trạng

sẵn sàng gây chiến, một lịch sử bất hạnh và buồn đau cho Miền Đất Thánh. Nhưng vẫn còn những người có cách nhìn

khác hẳn. Trong một câu chuyện Talmud nổi tiếng của Do Thái kể rằng, một người ngoại giáo đã tìm đến giáo sĩ Do

Thái vĩ đại Hillel (năm 80 trước Công Nguyên – năm 30 sau Công Nguyên) và hứa sẽ đi theo đạo Do Thái nếu như

Hillel có thể giảng toàn bộ kinh Torah cho hắn nghe trong lúc chỉ đứng bằng một chân. Hillel đáp, “Những gì anh ghét

xảy ra cho bản thân thì đừng bao giờ làm điều đó đối với người khác. Toàn bộ nội dung kinh Torah chỉ có thế, phần

còn lại là lời diễn giải. Anh hãy đi về mà tự nghiên cứu.”

Hillel cho rằng, những bản diễn dịch Kinh Thánh nào khơi dậy lòng thù hận hoặc khinh khi đồng loại nơi con người –

bất kể tín ngưỡng ấy là gì – đều không chính thống. Thế giới này nên học theo quan điểm của ông.

Xét về mặt tích cực, tôn giáo đặt ra cho ta những tiêu chuẩn về đạo đức. Nó cho phép ta sống với những thực tế không

có lời giải thích hay những vấn đề không có giải pháp: cái chết, đau khổ, buồn thương, vô vọng, căm phẫn với bất công,

nghèo đói và sự tàn bạo.

Một số người theo chủ nghĩa hiện đại cho rằng đức tin không thích ứng với triết học chủ nghĩa duy lý của người Hy

Lạp cổ. Chưa hẳn. Học trò không tìm đến Socrates để học bất cứ thứ gì – ông luôn khẳng định mình không có gì để dạy

cả – mà là để thay đổi tư tưởng. Như nhà sử học tôn giáo Karen Armstrong viết trong quyển The Case for God:

Socrates, Plato và Aristotle, những người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý phương Tây thấy chuyện lý luận và những gì

siêu nghiệm không hề mâu thuẫn. Họ hiểu con người luôn khao khát được nâng khả năng lý luận của mình lên, đến

mức không thể giải thích thêm được nữa, mà chấp nhận sự bí ẩn chưa thể khám phá một cách kinh ngạc, sửng sốt và

thỏa mãn chứ hoàn toàn không khó chịu.

Điều này chỉ khả thi khi ta trau dồi thái độ lắng nghe tích cực và chịu tiếp thu. Nó đòi hỏi ta phải dẹp bỏ hết những

tranh cãi về học thuyết, mang niềm tin vào thực tế và phát triển cái Khổng Tử gọi là “cái tâm của con người”.

Con người muốn sống giàu sang và mãnh liệt. Nhưng trong đau thương, mất mát họ lại mong tìm được bình yên,

thanh thản. Họ muốn cuộc sống của mình giàu ý nghĩa và một chút linh thiêng. Họ muốn tôn thờ những bí ẩn chưa giải

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.