vay cao nhưng vẫn do những cổ đông sở hữu. Hiện nay, quá trình huy động
thêm vốn không được phổ biến như xưa nữa, (vì có quá nhiều công ty huy
động thêm vốn vay quá cao dẫn đến phá sản vào cuối những năm 1980 và
đầu 1990), song, chúng ta vẫn nên học hỏi và rút kinh nghiệm từ nó. Nhưng
chúng ta sẽ nói đến vấn đề này sau.
Trước tiên, hãy xem quá trình tái cơ cấu diễn ra như thế nào. Hãy giả sử
rằng giá cổ phiếu của Tập đoàn XYZ nào đó đang được bán với giá 36 đô
la/một cổ phiếu. Khi công ty chủ quản thấy rằng việc huy động thêm vốn sẽ
tốt hơn cho các nhà đầu tư, họ sẽ đưa ra quyết định phân phát trái phiếu
mới phát hành trị giá 30 đô la cho các cổ đông. Theo lý thuyết, cổ phiếu
của công ty XYZ có giá là 36 đô la trước khi chia và 30 đô la sau khi chia,
nên thị trường cần đánh giá chính xác cổ phiếu đó với giá khoảng 6 đô
la/một cổ phiếu. Nếu điều đó thực sự diễn ra, sẽ không có gì để chúng ta
bàn luận. Tuy nhiên mọi việc không đơn giản như vậy.
Trên thực tế, việc huy động thêm nguồn vốn có chiều hướng tạo ra giá trị
gia tăng cho các cổ đông. Lý do đầu tiên là nó có lợi về thuế cho bảng thu
chi tài chính của công ty. Thử giả định rằng, trước khi tiến hành huy động
thêm vốn, công ty XYZ thu được 3 đô la/một cổ phiếu sau thuế, với tỷ lệ lãi
suất là 12% dựa trên giá 36 đô la/cổ phiếu. Tỷ lệ đóng thuế, bao gồm các
khoản thuế nhà nước, được tính là 40%. Vì thế lợi nhuận trước thuế của
công ty XYZ thực ra là 5 đô la/cổ phiếu, (5 đô la lợi nhuận trước thuế trừ đi
2 đô la đóng thuế cho chúng ta con số 3 đô la/cổ phiếu lợi nhuận sau thuế).
Bây giờ, hãy xem điều gì xảy ra khi tính bản cân đối tài chính sau quá trình
huy động thêm vốn.
Nếu như cổ phiếu trị giá 30 đô la phân phối cho các cổ đông mang theo tỉ
giá lợi nhuận 10%, thì công ty XYZ sẽ sở hữu 3 đô la lãi/mỗi cổ phiếu mỗi
năm. Vì lợi nhuận của công ty bị trừ vào thu nhập trước khi tính thuế phải
đóng, nên lợi nhuận trước thuế mới của XYZ bây giờ sẽ là 2 đô la/cổ phiếu.
Khoản lợi nhuận trước thuế 5 đô la trừ đi 3 đô la/cổ phiếu vào chi tiêu lãi