đông người hò hét, đánh trống khua mõ để giúp sức. Các phường săn đều
có những tay lưới lớn nặng ba bốn người khiêng, khi thấy hổ xuất hiện ở
cánh rừng nào thì dùng lưới vây lại, trước ngăn không cho hổ chạy thoát,
sau dùng những cây hóp đực chắc và cao rào xung quanh để khi bị những
tiếng hò hét, tiếng phèng la trống mõ xua đuổi, hổ bị ép cùng đường, đến
bên hàng rào nhưng không thể nhảy qua. Trai tráng vây được hổ rồi, hàng
rào được đẩy lên thít lại, rồi dùng giáo mác, đòn xóc đâm cho hổ đến chết,
sau đó xẻ thịt chia cho dân làng.
Đấy là cuộc săn của Lạc dân, bắt hổ dữ để trừ tai họa cho người và súc
vật nuôi. Còn cuộc săn tổ chức ở núi Tam Sơn lại là một nghi lễ thượng võ
của bộ tộc Chu Diên. Bộ tộc Mê Linh không có tục săn hổ, nhưng do đã
luyện tập võ nghệ, nên Trắc không lấy làm lạ.
Chiều hôm trước những người xét dấu Chu Diên phát hiện thấy sườn
núi tranh dấu chân hổ rất lớn, bèn cho người báo với Đô Dương, từ đó báo
lên huyện lệnh Thi. Huyện lệnh Thi nói với Đô Dương, cuộc săn hổ này có
ý nghĩa đặc biệt đối với Sách, vì thế phải chuẩn bị kỹ. Thi hỏi:
"Có cần phải ám trợ Sách không?"
Đô Dương tự tin đáp:
"Đô Dương cùng luyện tập võ nghệ với Sách hơn chục năm trời, sức
Sách có thể đánh gục hai con hổ một lúc, xin huyện lệnh yên tâm."
Đêm đó Đô Dương ngủ ở Tam Sơn cùng đám thợ săn, canh chừng con
hổ. Mờ sáng hôm sau ông đi xem xét lại dông đất cố ý để cho con hổ chạy
qua vào khu rừng tranh bạt ngàn phía trong, nơi ấy Sách sẽ phải phóng hai
mũi lao trúng đích để chứng tỏ với Trắc, chàng đúng là một bậc nam nhi
đại trượng phu.
Lúc mặt trời lên cao khoảng con sào nứa, bà Thiện cùng huyện lệnh
Thi leo lên một quả đồi có độ cao vừa phải đủ để nhìn rõ phía dông đất nơi