1. Sử lên cơn sốt, đội khiêng: chậm thêm hàng năm sáu ngày, nhịn
khát, chiến dịch hỏng.
2. Sử nằm lại đây: đội cắt một người ở lại, không có nước cũng chết cả
hai. Một người nữa sẽ hy sinh vô ích vì Sử.
3. Sử biến đi: mọi việc đều trôi chảy.
Bài tính ấy giải xong, Sử không buồn, không lo. Cứ như một con toán
ở lớp: "Một cái bể có hai vòi, một chảy vào một chảy ra...". Có lo buồn gì
trong việc xem cái bể ấy sau mấy giờ sẽ cạn?
Từ từ diễu qua trước mắt Sử những hình ảnh tưởng đã quên từ bao
giờ, nay vụt chớp lên sắc nét. Cái tên Đinh Viết Sử khắc bằng mũi dao trên
mặt bàn học. Thỏi súc cù là đắng ngọt Khiêm dúi cho hôm trước. Mẹ khóc
rấm rứt khi nghe Sử tòng quân. Chú bé Sử lên năm bị trẻ con hàng phố
buộc cành cây vào dây treo quần mà không biết, cứ kéo mãi cái đuôi lá
chạy lông nhông. Tấm bảng Tổ quốc ghi công chữ đỏ lóe, dưới góc có tấm
ảnh Sử viền đen. Một giọng nói trầm: "Hy sinh vì Tổ quốc". Hy sinh... vì...
Tổ quốc... Đã đến lúc Sử cần hy sinh. Khiêm đã dặn dùng súng cho địch
khỏi nghe tiếng.
Chỉ còn mấy tia nắng le lói trên ngọn cây. Đội dừng lại nghỉ. Khiêm
nậy một gốc măng. Lương chất củi đốt lửa. Pha ngồi lả, dựa vào thân cây,
đôi lông mày nét mác hơi nhíu. Văn Thon vẫn lội rừng ào ào đâu đấy tìm
nước nứa.
Sử nhìn quanh một lần cuối, nhặt khẩu các bin, đi sâu vào rừng mươi
bước. Sử rút tập nhật ký viết mấy câu ngắn xin lỗi Lương và tất cả mọi
người. Trước khi gập sổ, Sử còn rút lược chải tóc úp tròn kín gáy, rẽ đường
ngôi thật gọn.
Sử lên đạn các bin, cởi một chiếc dép. Nòng súng chấm lạnh cằm.
Bỗng thoáng qua một cảnh buồn cười: Nhà thơ của lớp đệ tam chuyên khoa