Truyền kỳ mạn lục
NGUYỄN DỮ
Dịch:
Hơi lam: mái tóc, liễu: hoa cài,
Thuyền bể xa trông thấp thoáng ngoài.
Đạo sĩ một đi tìm khó thấy,
Trong không tản mác tiếng ngân dài.
IX
Tứ diện ba đào nhất kế sơn,
Dạ lai hà xứ mộng hương quan.
Mang mang trần giới hồi đầu viễn,
Thân tại hồng vân bích thủy gian.
Dịch:
Sóng nước bao quanh núi một vùng,
Mộng về quê cũ lối không thông.
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,
Trần giới xa coi ngút mịt mùng.
X
Đào hoa nhiễu giản xuất Thiên thai,
ủy địa tàn hồng bán lục đài.
Khước tiếu Lưu lang khinh xuất động,
Lâm phong kỷ bả ngọc thư khai.
Dịch:
Mặt suối hoa đào lặng lẽ trôi,
Rêu trùm sắc thắm uổng pha phôi.
Lưu Lang biệt động sao khờ mấy,
Thư ngọc buồn tênh giở mấy hồi. (29)
Như Từ, từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay mầu biếc. Những đêm gió
thổi, những sáng sương sa, bóng trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường,
đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến không sao ngủ được. Một hôm
trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương Nam. Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:
- Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:
- Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho
được tạm về, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ lang nói: