xuống thác nước rồi lăn xuống ao mà không để lại một dấu vết
nào. Chỉ còn lại tấm khăn trải giường cũ mắc trên cành cây!
Chúng ta không thể dùng nó làm chứng cứ để buộc tội lão ta
được.
— Có thể là như vậy! - Ông Baynes nói - Nhưng chúng ta có
thể cho hắn biết: bí mật của lão chỉ có giá trị đến năm 2000
thôi, nó trở thành đề tài cho việc nghiên cứu về tội phạm học.
Tôi sẽ gửi cho hắn ta một bức thư.
Ông tới phòng làm việc của tôi và trong nửa tiếng đồng hồ
người ta nghe thấy tiếng gõ máy chữ trong đó. Ông gửi thư ngay
chiều hôm đó. Ngày mai Mark Hillyer sẽ nhận được thư. Tôi
không biết ai là người lấy thư trong thùng ra, nhưng Oliver
Baynes đã thuật lại câu chuyện theo lời kể của bà hầu phòng
thuật lại.
Bà Ho đang lau chùi đồ đạc trong phòng làm việc của Mark
Hillyer thì người đưa thư tới nhà. Bà mang thư từ xuống nhà
cho người chủ đang làm việc ở tầng trệt vì trời quá nóng bức.
Khi nhìn thấy lá thư mặt lão ta tái đi. Đọc thư mặt lão nổi lên
những vết đỏ. Khi đọc đến trang thứ hai thì lão xé thư thành
trăm mảnh và ném chúng vào cái khay hứng tro. Lão bật que
diêm với những ngón tay run rẩy và đốt thư đi.
Không thể chế ngự được cơn giận dữ, lão bê và ném chiếc
khay xuống nền nhà. Lão nắm hai tay vào nhau, mắt đăm đăm
nhìn về phía thác nước.
Lão thấy khó thở. Lão quay lại tìm tay vịn nhưng rồi lão ngã
khuỵu xuống trước khi với được chiếc ghế. Hai tay ôm lấy ngực,
lão hổn hển: “Thuốc của ta... Thuốc của ta!”
Thuốc chữa bệnh đau tim của lão không để trong tủ thuốc
mà để ở đầu giường lão.