96
Làm quen với hệ thống tập tin ext3fs
Có thể nói rằng chúng ta đã “định dạng đĩa mềm”, nhưng cần biết là với hệ thống
tập tin ext3fs thì bạn không đọc được đĩa mềm này trên DOS hoặc Windows (nếu
không dùng chương trình hoặc driver đặc biệt). Để tạo ra những đĩa mềm có thể
đọc trên DOS và Windows cần dùng tùy chọn -t với giá trị vfat hoặc những tiện
ích đặc biệt khác. Nếu không đưa ra tùy chọn -t thì sẽ dùng dạng hệ thống tập
tin mặc định (hiện nay là phiên bản cũ của ext – ext2fs).
Sau khi thực hiện câu lệnh mkfs, sẽ tạo ra hệ thống tập tin dạng ext3fs trong
phân vùng chỉ ra. Trong hệ thống tập tin mới sẽ tự động tạo ra một thư mục với
tên lostfound+. Thư mục này được chương trình fsck dùng trong những trường
hợp khẩn cấp, vì vậy đừng xóa nó. Để bắt đầu làm việc với hệ thống tập tin mới,
đầu tiên cần kết nối (gắn) nó vào cây thư mục chung bằng lệnh mount.
Phải có ít nhất hai tham số cho câu lệnh mount: thiết bị (device, tên phân
vùng) và
điểm gắn (mount point). Điểm gắn là một thư mục đã có trong cây thư
mục, và dùng làm “thư mục gốc” đối với hệ thống tập tin gắn vào (giống như nút
nối giữa thân cây và cành cây). Ví dụ, câu lệnh:
[root]# mount /dev/hda10 /mnt/diaC
sẽ gắn hệ thống tập tin của phân vùng /dev/hda10 vào thư mục /mnt/diaC.
Cần phải có thư mục /mnt/diaC trong cây thư mục. Nếu chưa có hãy tạo ra
bằng lệnh mkdir.
Cần chú ý là sau khi gắn hệ thống tập tin vào thư mục /mnt/diaC, thì người
dùng không còn truy cập được tới nội dung (bao gồm cả thông tin về chủ sở hữu
cũ và quyền truy cập tới chính bản thân thư mục) của thư mục này nữa. Nội
dung này sẽ chỉ “quay trở lại” khi người dùng bỏ gắn (unmount) hệ thống tập tin
ra khỏi thư mục. Nội dung cũ của thư mục không bị huỷ, bị xóa, mà chỉ tạm thời
bị giấu đi. Vì thế tốt nhất là dùng các thư mục rỗng đã chuẩn bị sẵn từ trước để
làm “điểm gắn” (vì thế mà trong tiêu chuẩn FHS có đề cập đến thư mục /mnt,
hãy xem bảng
Dạng đơn giản nhất trong ví dụ ở trên của lệnh mount chỉ làm việc với điều
kiện tất cả những tham số còn thiếu có thể tìm thấy trong tập tin /etc/fstab.
Nếu không có tập tin đó (chỉ khi nào bạn cố tình hoặc vô tình xóa) hoặc trong
tập tin không có những dữ liệu cần thiết, thì cần sử dụng dạng đầy đủ của lệnh
mount
, như sau:
[root]# mount -t dạng_httt thiết_bị đường_dẫn
trong đó dạng_httt xác định dạng hệ thống tập tin trên thiết_bị (phân vùng),
còn đường_dẫn xác định điểm gắn.
Tập tin cấu hình /etc/fstab chủ yếu dùng để gắn tự động các hệ thống tập
tin trong quá trình khởi động Linux. Mỗi dòng của tập tin này chứa thông tin về
một hệ thống tập tin và gồm 6 vùng phân cách nhau bởi các khoảng trắng
Tên thiết bị (phân vùng). Có thể sử dụng tên thiết bị có trên máy (ví dụ
/dev/hda10), cũng như tên của hệ thống tập tin mạng NFS (ví dụ Thin-
hQuyen:/home/nhimlui – thư mục /home/nhimlui trên máy có tên Thin-
hQuyen).
17
Để tiện đọc các vùng thường sắp cho thẳng hàng, nhưng điều đó là không nhất thiết.