28
Cài đặt HĐH Linux trên cùng máy tính với Windows
2.5
Chuẩn bị các phân vùng trên đĩa
2.5.1
Lời khuyên khi tạo phân vùng
Đưa ra lời khuyên ở đây không phải là việc dễ dàng, vì phân vùng đĩa phục thuộc
rất nhiều vào ý thích và nhu cầu của chủ nhân đĩa. Nhưng cũng xin thử đưa ra
vài đề nghị sau. Tác giả sẽ đặt tên đĩa và phân vùng theo “tiêu chuẩn” của Linux,
tức là /dev/hda, /dev/hdb, v.v. . . đối với đĩa và /dev/hda1, /dev/hda2,
v.v. . . – đối với các phân vùng.
Việc phân chia đĩa thành các phân vùng là cần thiết, bởi vì Windows và Linux
sử dụng các cách lưu trữ thông tin trên đĩa và sau đó đọc chúng từ đĩa khác nhau.
Chính vì thế tốt hơn hết là dành cho mỗi hệ điều hành một (hoặc thậm chí một
vài như chúng ta sẽ thấy ở dưới) phân vùng riêng.
Đầu tiên chúng ta hãy xem xét một trường hợp đơn giản – dung lượng ổ đĩa
của bạn đọc không vượt quá 8,4 Gbyte (nói chính xác hơn – số cylinder không
vượt quá 1024). Trong trường hợp này mọi thứ đều đơn giản: bạn đọc chỉ việc
chia đĩa làm sao để đủ chỗ cho hệ điều hành sẽ cài đặt. Có thể sử dụng dữ liệu
cho biết kích thước đĩa nhỏ nhất cần thiết để cài đặt hệ điều hành với cấu hình
cơ bản trong bảng
Bảng 2.2: Nhu cầu sử dụng không gian đĩa của HĐH
Hệ điều hành
Yêu cầu
Windows 95
100 Mbyte
Windows 98
200 Mbyte
Windows NT
200 Mbyte
Windows 2000
700 Mbyte
Linux Red Hat 6.2 (Worksta-
tion với KDE)
700 Mbyte
Tuy nhiên xin hãy nhớ rằng, không những phải tính kích thước các tập tin của
bản thân hệ điều hành, mà còn phải tính cả kích thước của các chương trình bạn
đọc dự tính chạy. Và còn phải dành một phần dự trữ không nhỏ cho các chương
trình sẽ cài đặt sau này (không thể tránh khỏi!). Hãy tính rằng, 700 Mbyte dành
cho Linux ở trong bảng nói trên chỉ dành cho các chương trình cài đặt cùng với
Linux theo mặc định, trong số đó có, ví dụ, chương trình soạn thảo rất mạnh
Lyx. Đối với Windows cũng tương tự như vậy.
Theo kinh nghiệm của tác giả thì để làm việc với Windows 95/98, Windows
NT và Linux các phân vùng với kích thước 800-1000 Mbyte là đủ (tất nhiên, nếu
bạn đọc không cài đặt các gói chương trình lớn, như OpenOffice.Org), còn đối với
Windows 200 thì cần phân vùng lớn hơn.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề chia các phân vùng cho Linux. Ở đây
không thể chỉ chia một phân vùng. Thứ nhất, cần chia một
phân vùng swap
riêng biệt cho Linux. Khi xác định dung lượng của phân vùng swap Linux cần
tính đến những yếu tố sau:
Trong Linux, RAM và không gian swap hợp lại tạo thành bộ nhớ ảo chung.
Ví dụ, nếu bạn đọc có 256 MByte RAM và 128 Mbyte không gian swap, thì
sẽ có 384 Mbyte bộ nhớ ảo.