2.5 Chuẩn bị các phân vùng trên đĩa
29
Để làm việc với Linux cần ít nhất 16 Mbyte bộ nhớ ảo, vì thế nếu bạn đọc
chỉ có 4 Mbyte RAM, thì cần phân vùng swap không nhỏ hơn 12 Mbyte.
Kích thước của phân vùng swap có thể lớn bao nhiêu tùy thích, tuy nhiên
không cần cấu hình quá nhiều nếu không cần thiết. Thông thường chỉ cần
dùng swap khi máy ít bộ nhớ RAM hoặc chạy máy chủ với nhiều ứng dụng
nặng. Trong tất cả mọi trường hợp tốt nhất tránh dùng swap vì nó chậm
hơn RAM nhiều.
Khi tính kích thước của không gian swapping, cần nhớ rằng kích thước quá
lớn có thể là vô ích. Trên máy tính với 16 Mbyte RAM khi cài đặt Linux với
cấu hình chuẩn và các chương trình ứng dụng chuẩn thì 48 Mbyte không
gian swapping là đủ. Còn nếu cài đặt Linux với cấu hình nhỏ nhất, thì
không cần đến không gian swap. Tất nhiên, kích thước chính xác của không
gian swap phụ thuộc lớn vào chương trình sẽ được cài đặt.
Nói chung, chỉ nên suy nghĩ về vấn đề dung lượng của phân vùng swap khi
có một đĩa nhỏ và ít bộ nhớ RAM. Trong trường hợp ngược lại hãy phân chia để
tổng số dung lượng của bộ nhớ ảo (gồm RAM và phân vùng swap) không nhỏ hơn
128 Mbyte. Còn nếu như bạn đọc có 128 Mbyte RAM hay nhiều hơn, thì phân
vùng này có thể không cần thiết.
Tất cả các phần còn lại của Linux và các chương trình hỗ trợ theo nguyên tắc
có thể đặt vào một phân vùng. Tuy nhiên, việc đặt hệ thống tập tin Linux lên
vài phân vùng riêng rẽ là có ý nghĩa. Ví dụ, có nhà chuyên gia khuyên nên dành
cho hệ thống tập tin Linux ba phân vùng (nếu tính cả swap thì thành 4). Phân
vùng thứ nhất (theo ý kiến cá nhân tác giả, 1 Gbyte là đủ) sẽ chứa hệ thống tập
tin gốc (/). Phân vùng thứ hai dành cho thư mục /home. Còn phân vùng thứ
ba được gắn vào thư mục /usr. Việc phân chia như vậy dựa trên những lý lẽ
sau. Dù HĐH Linux có ổn định và đáng tin cậy đến đâu, thì thỉnh thoảng cũng
cần cài đặt lại. Ví dụ, bạn đọc muốn cập nhật phiên bản mới của bản phân phối,
hoặc vì ít kinh nghiệm sử dụng nên làm hỏng tập tin hệ thống quan trọng, hoặc
đơn giản là muốn cài đặt một bản phân phối khác. Nếu như tất cả được cài đặt
vào một phân vùng, thì khi cài đặt lại những dữ liệu đã làm ra và ghi nhớ trong
thư mục cá nhân sẽ bị mất (nếu không có bản sao chép). Ngoài ra, sẽ bị mất cả
những chương trình đã cài từ mã nguồn, hay cài bằng phương pháp khác. Phần
lớn những gói chương trình này được cài vào thư mục /usr. Nếu dành cho thư
mục này một phân vùng riêng và khi cài đặt không định dạng lại chúng, thì
những chương trình nói trên sẽ được giữ lại và có thể sẽ làm việc (rất có thể cần
vài cấu hình nhỏ) sau khi cài đặt lại hệ thống. Trong tiêu chuẩn về hệ thống tập
tin của Linux FHS (cụ thể xin xem ở chương ??) cũng có lời khuyên về việc đặt
thư mục /usr lên một phân vùng riêng.
Theo tác giả thấy, những ý kiến nói trên đã đủ để bạn đọc tự tìm ra phương án
phân chia ổ đĩa của mình, trong trường hợp chỉ có một ổ đĩa nhỏ. Bây giờ chúng
ta xem xét trường hợp đĩa với số cylinder lớn hơn 1024.
Từ những gì đã nói đến ở phần trước (hạn chế dung lượng đĩa cứng), cần đặt
chương trình khởi động trong phạm vi 1024 cylinder đầu tiên. Nhân tiện, NT
Loader không nhất thiết phải đặt vào phân vùng NTFS, cũng như không nhất
3
Xin cám ơn bác Tony Lý về mục này