62
Làm quen với hệ thống tập tin ext3fs
như vậy. Chúng ta sẽ nói kỹ về
mặt sau của hệ thống tập tin trong một số chương
sách sắp tới, nhưng bây giờ cũng cần đề cập đến một chút về chỉ số “inode”.
Vấn đề ở chỗ mỗi tập tin trong Linux có một “
chỉ số ký hiệu” (index descriptor)
tương ứng, hay còn gọi là “
inode” (tạm thời chưa có thuật ngữ tiếng Việt chính
xác nên xin để nguyên từ tiếng Anh). Chính inode lưu tất cả những thông tin
cần thiết cho hệ thống tập tin về tập tin, bao gồm thông tin về vị trí của các phần
của tập tin trên đĩa lưu, thông tin về dạng tập tin và nhiều thông tin khác. Các
chỉ số inode nằm trong một bảng đặc biệt gọi là
inode table. Bảng này được tạo
ra trên đĩa lưu cùng lúc với hệ thống tập tin. Mỗi đĩa lưu dù là thật sự hay lôgíc
thì đều có một bảng các chỉ số inode của riêng mình. Các inode trong bảng được
đánh số theo thứ tự, và chính chỉ số này mới là tên thực sự của tập tin trên hệ
thống. Chúng ta sẽ gọi chỉ số này là chỉ số của tập tin. Tuy nhiên đối với người
dùng thì những tên như vậy thật sự không thuận tiện. Không phải ai cũng có
khả năng nhớ đã ghi gì trong tập tin với số 12081982 (nói chính xác hơn là chỉ có
một số rất ít người có khả năng này). Vì thế các tập tin còn được đặt thêm một
tên thân thiện với người dùng và hơn thế nữa còn được nhóm vào các thư mục.
Tác giả đưa ra những thông tin ở trên chỉ để nói rằng tên của bất kỳ tập tin
nào trong Linux không phải gì khác mà chính là liên kết đến chỉ số inode của tập
tin. Vì thế mỗi tập tin có thể có bao nhiêu tên tùy thích. Những tên này còn được
gọi là liên kết “cứng” (hard link) (chúng ta sẽ làm quen kỹ hơn với khái niệm liên
kết và cách tạo những liên kết này trong chương sau). Khi bạn đọc xóa một tập
tin có nhiều tên (liên kết cứng) thì trên thực tế chỉ xóa đi một liên kết (mà bạn
chỉ ra trên dòng lệnh xóa). Thậm chí cả khi bạn đọc đã xóa đi liên kết cuối cùng
thì cũng không có nghĩa là đã xóa nội dung của tập tin: nếu tập tin đang được hệ
thống hay một ứng dụng nào đó sử dụng, thì nó được lưu đến lúc hệ thống (ứng
dụng) giải phóng nó.
Để có thể thêm tên khác cho tập tin hoặc thư mục (tạo liên kết cứng), chúng
ta sử dụng câu lệnh ln ở dạng sau:
ln tên_đã_có tên_mới
Ví dụ:
[user]$ ln projects/l4u/l4u-0.9.2.pdf ~/l4u.pdf
Ký tự ∼ có ý nghĩa đặc biệt, nó chỉ thư mục cá nhân (home directory) của người
dùng, chúng ta sẽ nói kỹ hơn về ký tự này ngay sau đây. Bây giờ có thể dùng
~/l4u.pdf
để thay cho đường dẫn dài hơn projects/l4u/l4u-0.9.2.pdf.
Chi tiết về câu lệnh ln bạn có thể đọc trong trang man của nó.
Có thể tìm ra số lượng liên kết cứng đến tập tin (tức là số lượng tên của tập
tin) bằng lệnh ls với tham số -l
. Ngay phía sau quyền truy cập đến tập tin là
một số cho biết số lượng những liên kết cứng này:
[user]$ ls -l
tổng 1280
-rw-r--r-- 1 teppi82 users 81409 2006-09-06 03:43 bash.tex
drwxr-xr-x 2 teppi82 users
4096 2006-09-06 02:16 images
-rw-r--r-- 2 teppi82 users 82686 2006-09-06 14:32 l4u-0.9.2.pdf
-rw-r--r-- 1 teppi82 users
3069 2006-09-06 13:52 l4u.tex
5
Nếu bạn dùng SuSE Linux thì có thể nhập vào lệnh ll.