nhập thế giới. Sam nghĩ rằng thế giới thực chỉ làm tăng thêm vấn đề cho
bản thân, nhưng nếu cậu muốn cảm thấy bớt lo lắng và giận dữ ở độ tuổi 20
– hay 30 – thì cách tốt nhất là đặt ra mục tiêu và cam kết.
Sam bắt đầu tìm một căn hộ. Ban đầu, cậu chỉ tìm đến những nơi cho thuê
ngắn hạn. Cậu cảm thấy bình tĩnh hơn trong nhiều tháng, nhưng sau đó
chiếc balô lại xuất hiện. Sam không thấy có lý do gì cần phải tìm một căn
hộ – cho đến khi cậu nhận ra cái cậu muốn có nhất là một chú chó.
Cậu xấu hổ khi kể với tôi rằng cậu từng có một chú chó, trước khi cha mẹ
cậu ly hôn. Sau vụ chia tay, việc ai sẽ chăm sóc chú chó không được nói rõ
ràng. Chú chó ít được chăm nom hơn và bắt đầu có vấn đề về hành vi,
chẳng hạn như gặm nát thảm hay gầm gừ với người khác. Không lâu sau,
chú chó bị cho đi. Sam tự trách bản thân vì đã không làm được gì tốt hơn
cho nó. Tôi cố trấn an Sam rằng những gì xảy ra với chú chó – và với cậu –
là do lỗi của cha mẹ cậu chứ không phải cậu. Tôi có thể thấy rằng cậu gần
như không thể chịu đựng nổi khi phải nói về điều này.
Khi Sam có một căn hộ và một chú chó, cậu bắt đầu bước chân vào cuộc
sống. Chăm sóc cho chú chó và đi dạo với nó mang lại cho Sam ý nghĩa và
nhịp điệu mà cậu đã đánh mất trong nhiều năm. Cậu bắt đầu kể những câu
chuyện hài hước về chú chó và cho tôi xem ảnh. Tôi gần như có thể thấy
tính cách của cậu – và cuộc đời cậu – thay đổi. Sam bắt đầu dắt chó đi dạo
để kiếm tiền. Cậu làm trợ lý cho một người huấn luyện chó. Không lâu sau,
cậu đã tiết kiệm đủ tiền để tự kinh doanh: một cơ sở nho nhỏ chăm sóc chó
ban ngày tên là Dog Days. Theo Sam, đây là cơ hội để cậu làm mọi việc
theo hướng khác.
Sau khi Dog Days đi vào hoạt động một thời gian, Sam ngừng trị liệu. Cậu
khó có thể sắp xếp gặp mặt thường xuyên vì phải đi làm. Vài năm sau, Sam
gửi e-mail cho tôi, nói rằng cậu thấy hạnh phúc và tự tin hơn. Cậu vẫn ở căn
hộ đó. Cậu đang thuê một nhà kho to hơn cho Dog Days và đã lên kế hoạch
kinh doanh bao gồm mở rộng ra một khu khác ở đầu kia thành phố. Cậu