đầu để kiếm các địa điểm tổ chức đám cưới và lần sau tìm cách có con,
những buổi trị liệu của chúng tôi giờ đây là về sự đau buồn.
Năm 1970, 1/10 số phụ nữ trong độ tuổi 40 không có con. Ngày nay, tỷ lệ
đó là 1/5. Đúng là ngày càng nhiều phụ nữ và đàn ông lựa chọn không có
con. Chẳng có gì để lý tưởng hóa chuyện làm cha mẹ cả. Đó là một điều rất
ý nghĩa, nhưng cũng là một việc cực kỳ khó khăn. Nó có thể gây căng thẳng
về mặt cảm xúc. Vì vậy, nhiều cặp đôi bỏ qua việc sinh con để tập trung vào
công việc hay theo đuổi những mục đích khác.
Nhưng theo một Khảo sát Toàn quốc về Phát triển Gia đình, khoảng một
nửa số cặp đôi không có con không hề lựa chọn điều đó. Họ giống như
Kaitlyn và Ben. Họ là những người trong độ tuổi 30 và 40 cảm thấy mình
đã không cân nhắc các thông tin về khả năng sinh sản đủ sớm, chẳng hạn
như khi họ còn trong độ tuổi 20, dù chưa sẵn sàng có con lẽ ra họ cũng đã
có thể lên kế hoạch cho gia đình và công việc để có được kết quả khác.
Khả năng sinh sản có vẻ như là vấn đề của phụ nữ, nhưng khi ngày càng
nhiều cặp đôi có con đầu lòng khi ở độ tuổi 30 và 40 thì thời gian tác động
lên tất cả mọi người. Điều không được nhắc đến trong các con số thống kê
nêu trên chính là vô số nam giới và nữ giới, dị tính và đồng tính, những
người có con trong độ tuổi 30 và 40 nhưng đã rất kinh ngạc khi nhận ra
rằng quá trình sinh con lại có thể khó khăn đến vậy. Điều mà các chuyên gia
sản khoa không biết – nhưng các chuyên gia tâm lý biết – chính là các mối
quan hệ và các cuộc hôn nhân hiện đại đang bị ảnh hưởng như thế nào bởi
chuyện mang thai và nuôi dạy con muộn.
Nữ giới và nam giới bị ảnh hưởng khi que thử thai được mang theo trong
tuần trăng mật và quan hệ tình dục trở thành cuộc săn tìm một đứa con được
lên lịch từ trước. Nhiều cặp đôi phải chịu đựng nhiều lần điều trị sản khoa
phức tạp, cuộc hôn nhân vỏ bọc, thời kỳ mang thai và thậm chí giai đoạn
nuôi con nhỏ trong lo âu và căng thẳng. Các cặp đồng tính nữ và phụ nữ
độc thân muốn có con sẽ có khả năng phải tìm đến sự can thiệp “sản khoa”