Bởi vậy, bây giờ anh ta bị tội, họ cũng thấy khoái chí. Hình như họ còn
muốn bàn tán thêm nữa, nhưng không có cái gì nói, lại thôi. Đàn muỗi kêu
vo vo, bay chạm phải những thân hình trần truồng rồi bay về tụ tập dưới
dãy cây ô - cữu. Người làng cũng tản dần về nhà, đóng cửa đi ngủ. Chị Bảy
vẫn càu nhàu, dọn bát đũa, đưa bàn ghế vào rồi cũng đóng cửa đi ngủ.
Anh Bảy cầm chiếc bát vỡ về ngồi ở bậc cửa hút thuốc. Nhưng lo
buồn quá quên cả hút. Lửa trong cái tẩu đồng bạch đầu ống điếu trúc tương
phi bít ngà dài sáu thước tắt dần. Anh cảm thấy tình thế hết sức nguy ngập.
Muốn tìm một cách nào, một phương kế nào cứu thân, nhưng đầu óc cứ rối
bời không nghĩ được cho mạch lạc. "Đuôi sam! Đuôi sam đâu? Thanh xà
mâu tượng tám... Càng ngày càng tệ... Vua lại lên ngôi... Phải đem cái bát
vỡ lên thành gắn lại... Ai có thể chống cự nổi ông ấy... Trong sách có chép
rõ... Con mẹ mày..."
Sáng sớm hôm sau, theo lệ thường, anh Bảy Cân vẫn chèo thuyền từ
Lỗ Trấn lên thành. Gần tối lại chèo về, tay cầm ống điếu trúc tương phi dài
hơn sáu thước và chiếc bát. Ngồi ăn cơm, anh nói với bà cụ Chín Cân rằng
cái bát vừa đưa lên thành gắn lại, mẻ một miếng to nên phải dùng đến mười
sáu chiếc đinh đồng, mỗi chiếc ba trinh, mất cả thảy bốn mươi tám trinh.
Bà cụ buồn rầu nói:
- Càng ngày càng tệ! Tao sống thế đủ rồi! Một chiếc đinh đồng những
ba trinh! Đinh đồng ngày trước có đắt như thế này đâu? Đinh đồng, ngày
trước... Tao năm nay bảy mươi chín tuổi rồi!
Từ đó, tuy ngày nào anh Bảy cũng lên thành như thường lệ, nhưng
cảnh nhà anh trông ảm đạm lắm. Người làng có ý lánh mặt, không đến
nghe tin tức trên thành đưa về nữa. Chị vợ anh cũng luôn luôn làm mặt
giận, vẫn mắng anh là "đồ khốn kiếp"!