Năm 1911, bác sĩ Beard đã công b
ố một bài báo có tên The Enzyme
Therapy of Cancer (Li
ệu pháp enzyme cho ung thư), trong đó tóm tắt liệu
pháp đi
ều trị của ông và các bằng chứng hỗ trợ. Sau khi ông qua đời vào
năm 1923, li
ệu pháp enzyme đã bị quên lãng, đặc biệt là sau khi Marie
Curie đ
ưa ra những công trình về phóng xạ. Người tiên phong trong việc
phát tri
ển liệu pháp chuyển hóa/enzyme là bác sĩ William Donald Kelley
(bác sĩ ch
ỉnh hình răng hàm mặt ở Texas). Khoảng năm 1960, ở tuổi 35,
s
ức khỏe của ông bắt đầu xấu đi. Năm 1964, một loạt các kết quả X-
quang cho th
ấy dấu hiệu của ung thư tuyến tụy cấp, gồm cả tổn thương
ở phổi, hông và gan. Bác sĩ phẫu thuật cho biết Kelley quá yếu để mổ và
nói v
ới bà Kelley (vợ ông và là mẹ của bốn đứa con ông) rằng ông chỉ
s
ống thêm 4 đến 8 tuần nữa. Kelley đã chấp nhận buông xuôi, nhưng mẹ
ông thì không! Bà v
ứt hết các đồ ăn nhanh, thịt và bắt ông chỉ được ăn
hoa qu
ả tươi sống, rau củ, các loại hạt. Sau vài tháng, Kelley bắt đầu
c
ảm thấy khá hơn, thậm chí còn có thể trở lại làm việc.
Tuy nhiên, sau 6 ho
ặc 7 tháng, tiến triển chấm dứt và lại phát triển
các v
ấn đề về tiêu hóa trầm trọng, có khả năng là do ung thư cấp. Thế là
ông b
ắt đầu dùng các enzyme tụy để hỗ trợ tiêu hoá, và cuối cùng ông
tăng li
ều tới 50 viên nang enzyme mỗi ngày. Đúng vào thời điểm này, ông
phát hi
ện ra công trình của bác sĩ John Beard liên quan đến mối quan hệ
c
ủa các enzyme tụy với ung thư. Ông cũng tình cờ đọc các bài viết của
bác sĩ Edward Howell, ng
ười sớm ủng hộ chế độ ăn thực vật. Đúng lúc
đó, Kelley hoàn toàn thoát kh
ỏi ung thư. Trước thực tế công nghiệp ung
th
ư luôn coi ung thư tuyến tụy là vô phương cứu chữa, điều này quả
nhiên c
ực kỳ ấn tượng!
Kelley đ
ưa ra giả thuyết ung thư hình thành là do dư thừa hormone
n
ữ, đó là nguyên nhân làm thay đổi tế bào gốc thành tế bào dưỡng mạc.
Nghĩa là ung th
ư là sự tăng trưởng của mô bình thường, nhưng sai địa
đi
ểm và thời gian. Ông tin rằng ung thư phát triển do thiếu các enzyme
tuy
ến tụy để tiêu hóa các tế bào ung thư. Sau cùng, Kelley đã tiếp tục
ch
ữa trị cho hơn 33 nghìn bệnh nhân ung thư. Bác sĩ Kelly có tỷ lệ chữa
kh
ỏi đến 93% ở những bệnh nhân còn sống ít nhất 18 tháng sau khi bắt
đ
ầu điều trị với ông. Nói cách khác, những người chưa “sức cùng lực
ki
ệt” thường thành công với phác đồ điều trị của ông, vì đây không hẳn
là m
ột liệu pháp điều trị có tác dụng nhanh chóng.