s
ử dụng các cụm từ như “rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra…” hoặc “nghiên
c
ứu đã chứng minh…” hay “các nhà điều tra khoa học đã tìm thấy…”,
nh
ưng sau đó không bao giờ thực sự trích dẫn bất cứ điều gì. Nếu ai đó
nghi ng
ờ hay thắc mắc thì tấn công nhân phẩm và/hoặc trí tuệ của họ.
Theo Adolph Hitler: “N
ếu anh nói dối mãi, cuối cùng mọi người cũng sẽ
tin đó là s
ự thật… Lời dối trá càng lớn, càng có nhiều khả năng mọi
ng
ười sẽ tin điều đó.” Những kỹ thuật này ngày nay vẫn đang được hầu
h
ết các nhà quảng cáo, kể cả Big Pharma sử dụng.
Ví d
ụ, Big Pharma thường xuyên phát triển thuốc kê đơn mới hơn và
t
ốt hơn, với mục đích chính là để tăng lợi nhuận cổ đông, mặc dù thực tế
là ph
ần lớn các loại thuốc này đều độc hại và nguy hiểm. Chúng được
qu
ảng cáo hết lần này đến lần khác, trên truyền hình, đài phát thanh, tạp
chí, t
ạp chí y khoa, và trong tài liệu khuyến mại. Mặc dù không có bằng
ch
ứng khoa học hỗ trợ cho việc sử dụng các loại thuốc này, chúng ta vẫn
b
ị tác động để tin đó là giải pháp cho những vấn đề y tế của mình. Nếu
b
ất cứ ai dám chống đối, nhân phẩm của họ sẽ bị công kích, còn trí tuệ
thì b
ị thách thức.
M
ột nghiên cứu gần đây ở Đức thực hiện đã phát hiện ra rằng 94%
thông tin trong tài li
ệu quảng cáo do Big Pharma gửi đến các bác sĩ hoàn
toàn không có c
ơ sở khoa học. Mike Adams nói thẳng: “Các công ty dược
ph
ẩm can dự vào các trò gian lận khoa học nhằm bóp méo các nghiên cứu
c
ủa họ và làm cho thuốc được phê duyệt dựa trên cơ sở khoa học không
v
ững vàng. Nhưng những gì làm tôi ngạc nhiên về nghiên cứu mới này là
m
ức độ của nó: 94% thông tin tiếp thị là vô căn cứ và không có cơ sở
khoa h
ọc. Đó là một con số đáng báo động – có nghĩa là 19 trong 20 tuyên
b
ố của các công ty dược trong các tài liệu tiếp thị của họ là dối trá.”