gian nữa mới hoàn trả nổi. Có người tỏ ra dứt khoát không trả, bảo lãi suất
phải trả đến đời con, lãi vượt quá vốn, đòi được hưởng lợi ích hợp pháp.
Mùa đông sắp tới sẽ thế nào? Rét hơn, rét hơn năm ngoái, rét đến độ
nhân dân cả nước phải đi sắm áo lông vũ, các xưởng may ở thành phố Tứ
Phương được dịp làm ăn. Các ông chủ kiếm được tiền trả bớt cho Văn Hòa,
như vậy tội của anh có phần giảm nhẹ. Vào thu, ngày nào Oánh Oánh cũng
trông, cũng mong.
Hồ Bằng bảo Oánh Oánh hoang tưởng, mùa đông sắp tới có thể ấm hơn
không nói làm gì, cho dù các ông chủ nhà may kiếm được, phát tài to họ
cũng không đem tiền đi trả ngay, họ sẽ tính chuyện mở rộng sản xuất cho
năm sau. Với lại, ai cũng biết tiền của Văn Hòa có thể kéo dài, chây ỳ. Cho
dù cơ quan tư pháp có dùng biện pháp mạnh để đòi nợ thì chính quyền
thành phố cũng không bằng lòng, nếu những xưởng sản xuất nhỏ kia gặp
rủi ro thì rất có khả năng Trung tâm thời trang cũng bị tổn thất lây. Dùng
luật pháp để đòi nợ cũng phải có lộ trình, lộ trình phải từng bước, mỗi một
bước đều có sự rắc rối, rắc rối ở chỗ các ông chủ kia sẽ lợi dụng pháp bảo.
Nghe Hồ Bằng nói vậy, Oánh Oánh đâm nản chí. Chị biết, Hồ Bằng hiểu
các xưởng may kia hơn chị.
Từ sau ngày Văn Hòa bị bắt, Hữu Ngư khôi phục quan hệ với Hồ Bằng.
Anh ta chủ động mời Hồ Bằng ăn cơm, coi như tan băng. Buôn bán làm ăn
của anh ta cũng thay đổi, buôn bán than ít đi, thấy mở xưởng may kiếm
được, anh ta cũng theo trào lưu mở một xưởng với qui mô hai trăm công
nhân, nghe nói cũng lãi lắm.
Hữu Ngư có vốn, cửa miệng anh ta vẫn nói: “Nếu tôi có tiền, mua sắm
một nghìn máy, mỗi mùa đông làm hai triệu áo, rất nhẹ nhàng kiếm được
một khoản lớn. Vậy là tôi thành ông chủ lớn”.
Anh ta cũng nói, Văn Hòa có cống hiến đặc biệt cho sự phát triển ngành
may của thành phố Tứ Phương. Còn đối với Đại Trung cũng bị bắt, anh ta
không nói gì.
Có lần Hồ Bằng hỏi Hữu Ngư, Văn Hòa có bao nhiêu tiền ở chỗ anh ta?
Hữu Ngư không trả lời, chỉ ậm ự không rõ ràng.