thời cơ để hành động.
Đó là mặt tích cực ở Hạnh. Nhưng mặt tích cực đó nếu như không có chỗ
dựa vững chắc và nếu Hạnh manh động sẽ bị chính kẻ mà Hạnh đang căm
ghét bóp chết ngay. Chỗ dựa đó không có lực lượng nào khác là Mặt trận
dân tộc Giải phóng miền Nam. Hạnh chỉ có cộng tác với Mặt trận mới
không đơn độc và mới thực hiện tốt đẹp ý nguyện của mình khi có thời cơ.
Còn “đường đi” thì không thể coi là đúng. Nó chỉ là chỗ đứng tạm thời, là
cơ hội để Hạnh dùng “viện trợ Mỹ, vũ khí Mỹ, kiến thức Mỹ mà quật lại
Mỹ” nếu như Hạnh đã đứng trong cùng đội ngũ của nhân dân để chống Mỹ,
cứu nước...”.
Từ nhận định trên đây, đồng chí Tư Chí đã gặp cùng một lúc cả Bảy Lương
và Tám Thành trao tiếp nhiệm vụ cho hai đồng chí đã từng dày công xây
dựng được cơ sở này. Nhiệm vụ tiếp đó, đồng chí Tư Chí đã nhấn mạnh:
Phải tiếp tục bám sát Hạnh để giác ngộ Cách mạng, chỉ ra hướng đi cho
Hạnh như lãnh đạo của Ban đã nhận định và chỉ ra. Đặt thẳng vấn đề yêu
cầu Hạnh cộng tác với Mặt trận dân tộc giải phóng, thực chất là với Cách
mạng. Khi Hạnh đã chấp thuận sẽ từng bước đặt ra những yêu cầu cụ thể
như:
- Cung cấp cho ta những tình báo quan trọng.
- Hạn chế xua quân đi càn quét ở vùng giải phóng. Nếu bắt buộc thì sẽ báo
trước cho ta và huy động số quân ít nhất, trong thời gian ngắn nhất.
- Nếu cần có một “quả bom chính trị” nổ giữa Sài Gòn, sẽ sẵn sàng đi ra
vùng giải phóng sau khi đã có một hành động quân sự đáng kể.
Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất là sẽ: Sẵn sàng tham gia Chính phủ,
nếu như người đảo chính là Dương Văn Minh, hoặc một người tiến bộ nào
khác.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, đồng chí Bảy Lương đã phải từng bước
vạch ra “đường đi nước bước” và đồng chí Tám Thành đã không biết bao
lần phải tới thăm Hạnh và trò chuyện với người cháu họ của mình. Cả hai
đã phải vượt qua biết bao hiểm nguy, kiên trì, lăn lộn bám sát mục tiêu suốt
5 năm trời. Từ chấp thuận một, hai yêu cầu của bác mãi tới năm 1969 khi
Nguyễn Hữu Hạnh được phong hàm Chuẩn tướng, vị Phó tư lệnh quân