Vua mới lập hiệu là Hậu Thổ Phu Nhân, đặt hương án ở trong ngự
thuyền, tự nhiên sóng gió êm lặng, cây cối hết lay chuyển.
Kịp lúc vua đến Chiêm Thành, trong khi giáp trận như có Thần giúp140,
quả được đại thắng. Ngày khải hoàn, ngự thuyền đậu lại chỗ cũ, sắc lệnh
lập đền, gió mưa lại nổi lên như xưa. Sư Huệ Lâm tâu:
- Để xin một keo, về Kinh Sư sẽ lập đền.
Xin một keo liền được ngay; gió mưa lại êm lặng.
Về đến kinh đô, vua bảo thầy xem đất, xây đắp đền thờ ở làng An Lãng,
rất có linh ứng, hễ có người nào phỉ báng nguyền rủa, lập tức mắc phải tai
họa.
Thời vua Anh Tông, nhân trời đại hạn, quần thần xin đắp một cái đàn
hình tròn ở Nam Giao để tế trời, thỉnh Nguyên Quân làm đàn chủ. Nguyên
Quân cho vua nằm thấy rằng:
- Bản bộ có thần Câu Mang làm mưa rất giỏi.
Vua lấy làm mừng mới hội nghị quần thần lại, định rước thần Hậu Tắc
phồi với trời, thần Hậu Thổ phối với đất, lập đàn ở Nam Giao mà đảo. Quả
nhiên được mưa to xối xả. Vua cả mừng, sắc hạ rằng:
- Hậu Thổ Phu Nhân có Câu Mang Thần Quân là chủ về việc mùa xuân;
từ nay về sau phàm đến lễ Lập Xuân có con trâu đất phải đem về nạp ở đền
thờ.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hậu Thổ Thần Địa Kỳ
Nguyên Quân. Năm thứ tư, gia phong hai chữ Nguyên Trung. Năm Hưng
Long thứ hai mươi mốt, gia phong bốn chữ Ứng Thiên Hóa Dục.
Tiếm bình
Trước khi vua nhập mộng thì mé biển một gốc cây khô. Một ngày tìm
đến thuyền vua mà hiệu linh, thu góp gió mưa, đuổi êm sóng cả, giúp võ
công ở Lâm Ap, khởi đền thờ ở Lãng Hương, làm Hoàn Khẩu đàn chủ, làm
Hậu Thổ Phu Nhân, nhưng xét đến lai lịch, chỉ xưng là Đại Địa Chi Tinh,