Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Dũng Liệt Đại Vương. Năm
thứ tư, gia phong hai chữ Chiêu Ứng. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt,
gia phong hai chữ Uy Tín.
Tiếm bình
Chùa Kiến Sơ nay ở tại làng Phù Đổng, bên đền thờ Thiên Vương, thời
Xung Thiên Thần Vương tức là huy hiệu Thiên Vương. Việt Sử chép vua
Lý Thái Tổ truy phong Xung Thiên Thần Vương, dựng miếu bến chùa Kiến
Sơ, thì rõ ràng là việc của Thiên Vương, mà sao đày lại chép là việc thần
Thổ Địa, thì chẳng biết ra làm sao vậy.
Mấy bài kệ ở trong bản chép này, nếu chẳng là của người lão luyện bút
nghiên thì cũng là của kẻ thâm thuý thuyền học, chứ không phải là của kẻ
thắp nhang tầm thường mà có thể xê xích muôn một vậy. Hoặc là khí tốt
Đức Giang, tinh anh đúc lại làm Thiên Vương mà thần là phụ thuộc vậy
chăng? Ví bằng lấy Thổ Địa làm Thiên Vương, tớ này chẳng dám tin chắc
vậy.
Hoặc giá lại bảo: Chí Thành Thuyền Sư, sau khi chết, anh khí không tan,
thường giả hình ở thần Thổ Địa những thi đề đều do Chí Thành Thuyền Sư
làm ra cả. Xem như Dâm Từ muốn phá rồi lại không phá, lai sửa sang mà
cúng lễ nữa. Ngẫm nghĩ lời thơ thì là của Thuyền Sư làm ra cũng chưa biết
chừng.
Tục truyền rằng: vua Lý Thái Tổ lúc còn bé nhỏ, ở với nhà sư Vạn Hạnh
tại chùa ấy, mỗi khi đến rằm hoặc mồng một, nhà chùa cúng lễ, vua lấy oản
xôi ăn trước. Một hôm thần cho Sư mộng rằng: mỗi khi có lễ cúng, Hoàng
Đế cứ nếm trước mãi. Vạn Hạnh cho triệu tăng chúng đến trách mắng. Vua
giận lấy bút viết sau lưng tượng Hộ Pháp ba chữ: “Lưu viễn Châu” (đầy
châu xa). Sư đêm ấy lại mộng thấy thần đến tạ rằng:
- Nay vâng mệnh Hoàng đế đày đi, xin đến từ biệt.
Sư tỉnh dậy, đi xem khắp cả các tượng, thấy sau lưng tượng thần Hộ Pháp
có ba chữ rõ ràng. Sư cũng biết nét chữ là do tay vua viết ra mới khiến lấy