Đêm ấy đã canh ba, trời gần sáng, hốt nhiên nghe một trận gió thơm, khí
lạnh buốt người, thấy một người đàn bà vừa lạy vừa khóc rằng:
- Thiếp nghe đạo làm đàn bà là tòng nhất nhi chung, Tiên quốc vương
của thiếp tuy chẳng dám cùng Bệ hạ tranh xung nhưng cũng là một bậc nam
tử, một phương kỳ tài, thiếp được lam dự khăn lược, ân ái thao vinh: bất
hạnh quốc phá phu vong, thiếp đêm ngày thê lương chỉ lo đồ báo, nhưng
quần thoa yếu ớt biết tính làm sao? May nhờ hồng ân Bệ hạ sai sứ đưa thiếp
xuống tuyền đài cùng chồng hội diện, sở nguyện của thiếp được thỏa mãn
rồi còn có linh gì mà dám đến đây đường đột?
Nói đoạn biến mất. Vua thất kinh tỉnh vậy, thời là một giấc chiêm bao.
Vua truyền đem lễ vật và rượu đến đền cúng tạ, phong Hiệp Chính Vương.
Về sau xa gần cầu đảo, đều có linh ứng.
Niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Hiệp Chánh Hựu Thiện Phu
Nhân, năm thứ tư thêm hai chữ Trinh Liệt. Năm Hưng Long hai mươi mốt
gia phong hai chữ Chân Mãnh, đến nay vẫn còn phụng sự, càng thấy linh
ứng vậy.
Tiếm bình
Kinh Dịch rằng: “Thấy chồng nhiều vàng quên mất mình”. Thương thay!
Thói đời thật đáng khinh bỉ. Nước Chiêm Thành búi tóc dùi trống, thân thể
lõa lồ, lấy vải trắng buộc tay, ăn không có đũa, ghi việc thì dùng chữ mọi,
toàn nước tụng niệm kinh Phật, không học Thi, Thư, chẳng hề biết đến
nghĩa luân thường ra thế nào, mà Phu Nhân cũng là một hạng đàn bà, có cái
hình dung cá lặn nhạn sa, có cái diện mạo hao hờn nguyệt thẹn, phụng sự
một vị Kiền vương. Đang khi trận đánh trên sông tan rã, sơn hà mong manh
như sợi tơ, thế mà hăng hái từ cái vinh vạn thặng, bỏ cái tính mệnh một
buổi mai, khẳng khái có cái tiết tháo giữ vững khuôn trinh. Cái khí u uất,
những lúc khói, lam tối, thường phảng phất ở trên nhà sông thuyền chài.
Lòng trinh, tiết rắn, thường giữ tiếng vang trong gió oán mưa buồn, nộ khí
ai thanh hằng gởi giận cho sóng dồi, nước cuốn, như than như khóc, nghìn