100 năm trời và còn kéo dài chưa biết đến bao giờ!
-o0o-
Từ đầu chương này, tôi đã mô tả và phân tích cái bản chất Diệm không
Diệm của chế độ Thiệu bằng quy luật thực nhất của chính trị miền Nam là
chính cái lõi nhân lực lãnh đạo Cần Lao Công Giáo là yếu tố chính đã tạo
nên hướng đi và sức mạnh có tính “Diệm không Diệm” cho chế độ. Bám
theo hướng đi đó và lạm dụng sức mạnh đó dĩ nhiên phải có một đoàn quân
những vị linh mục và giáo dân có chức quyền, luôn luôn hối mại quyền thế
để làm nổi bật thêm tính kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương mà họ thừa kế
đầy đủ từ chế độ Diệm.
Nhưng như thế vẫn chưa toàn diện nếu ta không bổ túc tình trạng này bằng
một hiện tượng chính trị xã hội học khác: là khi chế độ đó rõ ràng xấu xa và
rõ ràng bị toàn dân và toàn quân lên án trước lịch sử thì bộ phận nào vẫn
ngoan cố muối mặt đứng ra bênh vực không những khi chế độ đang còn mà
ngay cả khi đã mất.
Thật vậy, chế độ Thiệu ngày càng tham nhũng và thối nát. Xã hội Việt Nam
ngày càng băng hoại suy đồi, cho đến năm 1971, khi ông Thiệu bày trò bầu
cử độc diễn thì uy tín và vận mệnh miền Nam không còn gì nữa. Trước hoàn
cảnh đó và trước sự khinh bỉ của các lực lượng dân tộc, một số trí thức
Công giáo vốn ủng hộ Thiệu từ trước bèn thay đổi lập trường. Bắt nguồn từ
mặc cảm tội lỗi có thật, họ quyết định chấm dứt ủng hộ chế độ và tỏ thái độ
chống đối Nguyễn Văn Thiệu cùng những tướng tá tay sai của Thiệu.
Trong số trí thức Công giáo hiếm hoi đó tôi ghi nhận được bà Nguyễn
Phước Đại (Nghị sĩ trong liên danh Mặt Trời của Huỳnh Văn Cao), bà giáo
sư Bùi Tuyết Hồng (sau này trở thành phu nhân của ông Đại sứ Hòa Lan tại
Thái Lan), các ông Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Chức và ký giả Đinh
Từ Thức biệt hiệu là Sức Mấy, Cự Môn,... Các linh mục Thanh Lãng,
Nguyễn Quang Lãm, Trần Hữu Thanh, Đinh Bình Định, Nguyễn Ngọc
Hiệu, và các ông Nguyễn Trân, Nghị sĩ Hoàng Xuân Tửu, Dân biểu Nguyễn
Văn Kim,... (không kể các nhân sĩ Công giáo như Mai Ngọc Liệu, Trần Văn