VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU - Trang 76

DƯƠNG QUẢNG HÀM

VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU

THIÊN THỨ BA

CÁC CHẾ ĐỘ VỀ VIỆC HỌC THI

CHƯƠNG THỨ CHÍN

CÁC LỐI VĂN CỬ NGHIỆP VIẾT BẰNG CHỮ NHO:

KINH NGHĨA, VĂN SÁCH, CHIẾU BIỂU V.V.

Trong chương trước, ta đã xét chương trình các khoa thi chữ Nho xưa Trong các
lối văn dùng về việc thi cử, trừ lối thơ và lối phú là hai thể văn vần các văn sĩ
Tàu và ta thường viết (1), còn các lối khác như kinh nghĩa, văn sách, chiếu, chế,
biểu, chỉ là những lối văn ứng thí dùng trong trường ốc; ngoài ra ít khi dùng
đến. Vậy ta nên xét qua thể thức mấy lối ấy để hiểu rõ cái tính cách khoa cửa
của ta xưa thế nào ?
(1) Sẽ nói ở chương thứ XIII và XIV.

Kinh nghĩa
A) Định nghĩa – Kinh nghĩa đen là sách, đây tức là tứ thư và ngũ kinh hợp lại
thành chín kinh. Kinh nghĩa là một bài văn giải thích ý nghĩa một câu trích trong
truyện, bởi thế cũng gọi lối ấy là tinh nghĩa (tinh: làm rõ).
B) Phép làm kinh nghĩa theo lối “bát cổ”- Lối kinh nghĩa thông dụng nhất là lối
“bát cổ” (tám vế). Lối này là một lối biền văn (biền: hai con ngựa chạy sóng
đôi) không có vần mà có đối.
Các đoạn mạch trong một bài kinh nghĩa làm theo lối ấy gồm có:
1) Phá đề: mở bài 2 câu (lời mình nói)
2) Thừa đề : nối theo đoạn phá, vài ba câu (không phải đối) Từ đoạn sau trở đi
phải thay lời người xưa mà nói.
3) Khởi giảng: nói khai mào đại ý của đề mục (đối hay không đối)
4) Khai giảng: mở ý đầu bài (cuối đoạn này có một câu Hoàn đề nhắc lại câu
đầu bài.
5) Trung cổ: thích thực rõ nghĩa đầu bài
6) Hậu cổ : nghị luận rộng ý đầu bài
7) Kết cổ : đóng ý đầu bài lại (cuối đoạn này có một vài câu thắt đầu bài lại gọi

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.