Công việc thì hành, trăm mối tính lo cất nhắc.
(Trích trong Bài chiếu của vua Minh Mệnh khuyên răn thần dân về lúc đầu năm)
2) Niêm.- Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liền lạc về âm luật của hai câu văn.
Trong lối tứ lục, hai câu niêm với nhau khi nào hai chữ cuối câu cùng một luật,
nghĩa là hoặc cùng bằng bằng, hoặc cùng trắc trắc, thành ra bằng niêm với bằng
, trắc niêm với trắc theo thứ tự này:
Chữ cuối câu thứ 1 là bằng (1)
Chữ cuối câu thứ 2 là trắc (2)
Câu 2 niêm với câu 3
Chữ cuối câu thứ ba là trắc (3)
Chữ cuối câu thứ 4 là bằng (4)
Chữ cuối câu thứ 5 là bằng (5)
Câu 4 niêm với câu 5
v.v...
Lời chú. Thể tứ lục còn dùng để làm những bài sắc (lời của vua phong thưởng
cho thần dân hoặc bách thần. Cáo (lời của vua tuyên bố một chủ nghĩa hoặc kết
quả một công cuộc gì cho dân biết) hịch (bài của vua, tướng, hoặc người lãnh tụ
một đảng kể tội kẻ thù để khuyến khích tướng sĩ và nhân dân), trướng (bài văn
chúc tụng về dịp thượng thọ hoặc thăng quang, hoặc phong tặng v.v. ..)
Kết luận : - Trong các lối văn dùng về việc khoa cử kể trên này thì lối kinh
nghĩa cốt xem xét học trò có thuộc và hiểu nghĩa kinh truyện không, nhưng phải
làm theo thể thức riêng và thay lời người đời xưa và giải thích sao cho đúng ý
của cổ nhân, chứ không được bày tỏ ý kiến riêng và lời phẩm bình của mình.
Chiếu, chế, biểu là lối văn ứng thế, chỉ khi nào thi đỗ làm quan mới có dịp dùng
đến. Duy có lối văn sách dùng để bày tỏ kiến thức, kế hoạch của mình còn có
thực dụng, những cũng phải là những người có lịch duyệt nhiều, có học thức
rộng mới ra ngoài khuôn sáo thường mà làm được những bài văn có giá trị.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một bài kinh nghĩa làm mẫu
2. Đầu bài