12) Trần Lãm (xưng là Trần Minh Công), chiếm giữ vùng Bố Hải
Khẩu (nay thuộc khu vực thị xã tỉnh Thái Bình).
Sách trên (tờ 25-b và 26-a) chép:
“Bấy giờ, nước không có chủ, mười hai sứ quân tranh ngôi, không ai
chịu thống thuộc ai. Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có
đức nhưng không có con nối dõi, bèn đem con là (Đinh) Liễn đến xin
nương tựa. (Trần) Minh Công thấy (Đinh) Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô, lại
có khí lượng hơn người, bèn nhận làm con nuôi, ơn thương yêu và nghĩa
đối đãi ngày càng trọng hậu, nhân đó, giao cho (Đinh Bộ Lĩnh) trông coi
việc quân, sai đi đánh các hùng trưởng
Phòng Át đem quân về hàng (sau, dưới triều nhà Đinh, Phạm Phòng Át
được làm Thân Vệ Tướng Quân).
Khi (Trần) Minh Công mất, bọn con em của Ngô Tiên Chúa (chỉ Ngô
Quyền – NKT), từ vùng Đỗ Động Giang, đem hơn năm trăm thủ hạ tới
đánh, nhưng bọn này vừa đi đến Ô Man thì bị thủ lĩnh của làng ấy là Ngô
Phó Sứ đánh bại, đành phải kéo về. (Đinh) Bộ Lĩnh nghe tin, cất quân đi
đánh Đỗ Động Giang, không ai là không chịu hàng phục. Từ đó, quan lại
và dân ở kinh đô cũng như ở các phủ đều theo về. Nhà Ngô mất”.
Năm Mậu Thìn (968), sau khi tiêu diệt hết các sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên
ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, định đô ở Hoa Lư, đặt tên nước
là Đại Cồ Việt, đặt niên hiệu là Thái Bình. Cũng năm đó, quần thần của
Đinh Tiên Hoàng xin dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế.
Lời bàn
Về cuộc đại định của Đinh Bộ Lĩnh, sử gia Lê Văn Hưu đã có lời ban
rằng: “(Đinh) Tiên Hoàng tài năng sáng suốt, dũng cảm và mưu lược nhất
đời, đúng khi nước Việt ta vô chủ khiến cho các hùng trưởng cát cử mỗi
người một phương, một phen cất quân mà mười hai sứ quân đểu phải hàng
phục. Vua mở nước định đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan và lập ra
sáu quân, chế độ kể cũng gần đầy đủ. Có lẽ đó là ý trời muốn vì nước Việt