32. Dũng của Phạm Khôi
Phạm Khôi sinh năm nào không rõ, chỉ biết ông mất năm Tự Đức thứ
mười hai, Kỉ Mùi (1859), sau hơn ba chục năm làm quan, trải thờ ba đời
vua là Minh Mạng (1820-1840). Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-
1883). Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Nhị tập, quyển 29) cho hay,
ông người huyện Võ Giàng, nay thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Năm
Minh Mạng thứ mười (1829), Phạm Khôi đỗ Tiến sĩ và bắt dầu ra làm quan
kể từ đó.
Sinh thời, Phạm Khôi là người cương trực và sống thanh liêm, giản dị.
Sử cũ ca ngợi rằng, ông trải hơn ba chục năm làm quan mà chưa từng tậu
ruộng hoặc xây nhà, chỉ chuyên răn bảo con giữ nếp thanh bạch.
Vì cương trực, Phạm Khôi từng bị cách chức, nhưng điều ấy vẫn không
làm ông nản. Sách trên đã chép lời ông can vua Thiệu Trị như sau:
“Năm (Thiệu Trị) thứ bảy (tức năm 1847 – NKT). Vua sai xây dựng
Xương Lăng (tức lăng Thiệu Trị. Các vua nhà Nguyễn đều lo xây lăng cho
mình ngay khi đang sống – NKT), bàn định nên xây thêm lầu và gác cùng
với thành bao bọc ở phía ngoài. Công trình nặng nhọc và to lớn, nhưng
không ai dám nói gì cả. (Phạm) Khôi dâng sớ, đại lược nói rằng: -Thuở
xưa, lăng tẩm của các bậc đế vương đều làm theo chế độ giản lược. Không
phải vì (các đế vương xưa) sợ khó nhọc, cũng chẳng phải vì sợ hao tốn tiền
của, mà tất cả chỉ vì muốn sao cho xứng đáng với lễ đó thôi. Đạo hiếu lấy
sự hợp lễ làm quý. (Những việc như) đào huyệt để chôn, đắp đường dưới
đất, xây thêm thành chung quanh, làm đền thờ ở mộ, dựng nhà để bia …
đều là đúng với lễ. Còn những việc như xây thành cho rộng rãi, làm lầu gác
cho nguy nga, nhiều đến bao nhiêu cũng chẳng thể nói là phong lưu, ít đến
bao nhiêu cũng chẳng thể nói là kiệm ước, cho nên thuở xưa, Hán Văn Đế
dựng Bá Lăng, Đường Thái Tông xây Hiếu Lăng mà (các quan như)
Trương Thích Chi và Ngu Thế Nam đều can nên kiệm ước, và hai vua ấy
đều nghe theo, để tiếng thơm khen ngợi đến ngàn đời. Lại nói, Hán Quang
Võ
làm Nguyên Lăng, xuống chiếu làm theo lối giản tiện, sau, (Hán)