20. Lê Duy Tân bất ngờ được … làm vua!
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên,quyển 30, tờ
29) viết rằng:
“Nhà vua (chỉ vua Lê Thế Tông, làm vua từ năm 1573 đến năm 1599 –
ND) bị bệnh, đến ngày 24 tháng này (tháng 8 năm 1599 – ND) thì mất. Vua
ở ngôi 26 năm, hưởng thọ 32 tuổi. (Trịnh) Tùng cùng bọn bầy tôi trong
triều bàn định rồi lấy cớ rằng: con trưởng của Nhà vua là Thái tử (Lê) Duy
Trì không được minh mẫn, bèn rước con thứ của Nhà vua là (Lê) Duy Tân,
lập lên làm vua (tức vua Lê Kính Tông). Hạ chiếu lấy năm sau (Canh Tí,
1600 – ND) làm năm Thận Đức thứ nhất, tha hết các thứ thuế của dân trong
nước còn thiếu và mở rộng lòng thương xót đến những người phải phiêu
bạt đó đây mới trở về bản quán, đồng thời, gia tước và cấp đất cho bọn bề
tôi có công, gia phong điển lễ thờ tự cho bách thần theo thứ bậc cao thấp
khác nhau. Triều đình lại còn định ra thể lệ để tang (Vua): Các hàng thân
vương, các quan văn võ lớn nhỏ ở trong triều cũng như ở các địa phương,
để tang từ ba năm trở xuống, nhưng theo thứ tự mà giảm dần; nhân dân cả
nước để tang hai mươi bảy ngày; riêng (Trịnh) Tùng là bậc huân vương
nên phải khác với trăm quan, chỉ để tang một trăm ngày mà thôi.”
Lời bàn
Đời cha là Lê Duy Đàm cũng không ngờ mà được làm vua. Bấy giờ
(năm 1572), Lê Anh Tông vì hốt hoàng mà bỏ chạy vào Nghệ An, khi đi,
đem theo bốn trong số năm vị Hoàng tử của mình. Vị Hoàng tử thứ năm là
Lê Duy Đàm, lúc này mới 6 tuổi, đang ở xã Quảng Thi, huyện Thụy
Nguyên (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), được Trịnh Tùng …
đẩy lên ngôi vua. Lê Anh Tông sau đó bị Trịnh Tùng giết, còn Lê Duy Đàm
hiển nhiên giữ ngôi chí tôn suốt hai mươi sáu năm trời, Đó là vua Lê Thế
Tông (1573-1599).
Tương tự như vua cha, Lê Duy Tân cũng là phận con thứ mà gặp may.
Bấy giờ, bởi anh ruột là Thái tử Lê Duy Trì, tuy đã lớn tuổi, nhưng bị chúa
Trịnh Tùng coi là… không minh mẫn mà bi phế, cho nên, Lê Duy Tân mới