23. Chuyện Sái Kinh và Sái Tập
Sái Kinh và Sái Tập là hai viên quan của nhà Đường, sinh năm nào
không rõ, chỉ biết Sái Kinh bị buộc phải tự tử vào tháng 7 năm Nhâm Ngọ
(862), còn Sái Tập thì bị chết trận vào tháng giêng năm Quý Mùi (863).
Chuyện về hai viên quan họ Sái, thực ra lại có gốc gác từ chuyện viên quan
đô hộ trước đó là Lý Trác, vì tham lam quá mức, đã gây ra cuộc xung đột
với Nam Chiếu. Bấy giờ vùng Tây Nam Trung Quốc và một phần vùng Tây
Bắc nước ta là lãnh thổ của nước Nam Chiếu. Sử cũ chép rằng, Lý Trác
tham lam tàn bạo, ức hiếp để mua rẻ bò và ngựa của đồng bào các dân tộc ít
người, mỗi con chỉ trả cho họ một đấu muối, đã thế, lại giết tù trưởng của
họ là Đỗ Tồn Thành, bởi vậy, họ tức giận, dẫn đường cho quân Nam Chiếu
vào cướp phá. Từ đây, Nam Chiếu trở thành nỗi bận tâm lớn nhất của nhà
Đường. Đã có lúc, toàn bộ các quan trong guồng máy đô hộ của nhà Đường
bị Nam Chiếu đánh cho tan tác, phải tháo chạy thục mạng về Trung Quốc.
Năm Tân Tỵ (861), quan đô hộ của nhà Đường là Vương Khoan lại đem
quân đi đàn áp đồng bào các dân tộc ít người và giết chết tù trưởng của họ
là Đỗ Thủ Trừng. Một lần nữa, đồng bào các dân tộc ít người đi cầu cứu
Nam Chiếu. Tình hình nước ta trở nên rất căng thẳng. Vua nhà Đường vừa
cử Sái Kinh sang làm đô hộ nước ta, vừa sai Sái Tập đem quân sang để
đánh nhau với Nam Chiếu. Nhưng, tình hình chẳng nhờ thế mà tốt đẹp hơn,
ngược lại, đã trở nên hết sức tồi tệ, mà nguyên nhân do chủ yếu lại bởi
những suy nghĩ hết sức lạ lùng của Sái Kinh. Sách Đại Việt sử ký toàn thư
(ngoại kỷ, quyển 5, từ tờ 10b đến tờ 11b) chép rằng:
“Mùa hạ, tháng 5 (năm Nhâm Ngọ 862), quan giữ chức Lĩnh Nam Tiết
độ sứ là Sái Kinh thấy Sái Tập chuẩn bị đem quân các đạo tới chống cự với
quân Man (chỉ chung quân Nam Chiếu và dân binh các dân tộc ít người), sợ
rằng Sái Tập sẽ lập được công to, lòng những ghen ghét, bèn tâu với vua
(nhà Đường) rằng: -Quân Man đã trốn xa, biên giới nay chẳng còn gì phải
lo nữa. Kẻ vũ phu kia chỉ cầu công danh, xin càn quân sĩ đi đóng ở nơi biên
ải, tốn phí quân lương và mệt nhọc chuyên chở, vả chăng, chốn hiểm yếu