28. Cuộc đại định của Đinh Bộ Lĩnh
Sau khi Thiên Sách Vương rồi Nam Tấn Vương lần lượt qua đời, đất
nước bước vào một thời kì loạn lạc kinh hoàng. Chừng như ở bất cứ địa
phương nào cũng có các thế lực cát cứ nổi lên, thậm chí có nơi, một vùng
nhỏ mà có đến mấy thế lực liền. Cuối cùng, các thế lực nhỏ dần dần bị tiêu
diệt, các thế lực lớn thì tồn tại tương đối lâu hơn. Đến năm Bính Dần (966),
cả nước còn lại mười hai thế lực cát cứ lớn, sử gọi đó là loạn mười hai sứ
quân. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 25a-b) cho biết
danh sách 12 sứ quân này như sau:
01) Ngô Xương Xí chiếm giữ vùng Bình Kiều (nay thuộc huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa).
02) Kiều Công Hãn (xưng là Kiều Tam Chế) chiếm giữ vùng Phong
Châu (nay thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ).
03) Nguyễn Khoan (xưng là Nguyễn Thái Bình) chiếm giữ vùng Tam
Đới (nay thuộc huyện Vĩnh Lạc, tĩnh Vĩnh Phúc).
04) Ngô Nhật Khánh (xưng là Ngô Lãm Công) chiếm giữ vùng
Đường Lâm (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây).
05) Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công) chiếm giữ vùng Đỗ
Động Giang (nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây).
06) Lý Khuê (xưng là Lý Lãng Công) chiếm giữ vùng Siêu Loại (nay
thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
07) Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh Công) chiếm giữ vùng
Tiên Du (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
08)Lã Đường (xưng là Lã Tá Công) chiếm giữ vùng Tế Giang (nay
thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên).
09) Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn Hữu Công) chiếm giữ vùng Phù
Liệt (nay thuộc huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).
10) Kiều Thuận (xưng là Kiều Lệnh Công) chiếm giữ vùng Hồi Hồ
(nay thuộc huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ).
11) Phạm Bạch Hổ (xưng là Phạm Phòng Át) chiếm giữ vùng Đằng
Châu (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên).