thắng trận lớn nữa vì Lý Nam Đế không kịp phòng bị. Ngài lại rút về Tân
xương (có chỗ chép là Tân Hưng) để chấn chỉnh lại quân đội sau giao lại
binh quyền cho Tả Tướng quân Triệu Quang Phục (Đại Việt Sử Ký, quyển
5 tờ 3 và Toàn Thư quyển 4 tờ 16 b 17 a).
Từ năm 547 miền đồng bằng Bắc Việt và Bắc Trung Việt lại lệ thuộc về
Tàu. Anh Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cố đánh được Đức Châu (Nghệ An,
Hà Tĩnh ngày nay) nhưng không bao lâu lại bại trận tại Ái Châu, phải đào
tẩu.
2 – Triệu Việt Vương
Triệu Quang Phục là con Thái Phó Triệu Túc: hai cha con ông theo Lý
Nam Đế đã lâu, vừa là tướng có tài, vừa là người trung thần nên được lãnh
sứ mạng đó; thấy quân Tàu còn mạnh, Triệu rút quân về Dạ Trạch là nơi
đồng lầy, chung quanh sẵn rừng núi (thuộc tỉnh Hưng Yên bay giờ). Ông
thiết lập doanh trại ở bên trong rất là bí mật, hiểm trở rồi cứ đêm tối dùng
thuyền độc mộc đem thủy quân ra đánh cướp được lương thực về nuôi quân
đội. Lối du kích chiến này ông là người thực hành đầu tiên đã mang lại
nhiều thắng lợi, nên Trần Bá Tiên mặc dầu binh hùng tướng mạnh đánh mãi
không xong. Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế mất. năm sau Triệu lên thay
xưng là Việt Vương, nhưng lương thực hao mòn dần. Tình thế giữa đôi bên
vẫn nhùng nhằng, chẳng ngã ngũ bề nào thì nhờ dịp bên Trung Quốc có
loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên phải triệu về để tùy tướng là Dương Sản ở lại
trông nom việc quân. Triệu thừa dịp tấn công quân Tàu rồi lấy lại thành
Long Biên.
Về phía quân Tàu được yên thì Triệu Việt Vương lại phải đối phó với Lý
Phật Tử. Nguyên Lý phật Tử là người họ của Lý Thiên Bảo, Thiên Bảo là
anh họ của Lý Bôn khi ông Lý Bôn thất thế thì cả bọn chạy vào quận Cửu
Chân rồi bị quân Lương đuổi phải bôn tẩu qua xứ Lào, đến đóng ở Dạ Lăng
xưng là Đào Lăng Vương lấy quốc hiệu là Dạ Lăng. Lý Thiên Bảo mất
(năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương) không con nên giao binh quyền cho Lý