Việc Ngoại Giao Với Bắc Triều
Long Đĩnh cử em là Long Xưởng với Chưởng thư ký là Hoàng Thanh
Nhã đem bạch tê sang cống nhà Tống và xin 9 kinh (3 bộ sách Tàu: tôn làm
kinh thuyết thứ nhất, xếp chữ Lệ, Nghi Lễ, Lễ Ký, Tả truyện, Công Dương,
Cốc Lương, Dịch, Thi và Thư làm 9 kinh thuyết thứ hai, xếp Dịch, Thi,
Thư, Lễ, Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ làm 9 kinh.
Chín Kinh của ta xin của Tàu có lẽ là kinh thuyết thứ 2) và kinh Đại Tạng (
kinh phật chữ Phạn gọi là Xripitaka) vua Tống ưng thuận.
Vua Long Đĩnh xin dùng áo giáp, mũ trụ có giát vàng và thông thương
với Ung Châu. Các điều này cũng được như ý, duy về việc buôn bán đổi
chác, vua Tống chỉ cho thi hành ở các chợ ChâuLiêm và trấn Thư Hồng, có
lẽ e dè sự đi lại của người Giao Châu quá sâu trong nội địa của họ chăng?
Năm Đinh Ngọ (1006) nghe nước ta rối loạn sau khi Lê Hoàn mất, vua
Tống sai Lang Sách là tri châu và Thiệu Việp là Điện Biên An phủ sứ sang
kinh lý GIao Châu. Bọn này trở về tâu rằng các con Nam Bình Vương Lê
Hoàn chia bè đảng, lập thành trại, sách mỗi người chiếm cứ mỗi nơi, nhân
dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp.
Vua Tống trả lời: “Họ Lê thường sai con sang chầu, nơi góc bể yên ổn,
không bỏ lòng trung thuận, nay nghe Nam Bình vương mất, chưa có lễ điếu,
lại đánh người trong khi có tang, đấng vương giả không làm những việc
như thế”. Rồi vua Tống phái Lang Sách đem thư sang phủ dụ các con Lê
Hoàn không nên cốt nhục tương tàn.
Ngay sau đó, bọn Thiệp Việp lại đem bản đồ thủy lực từ châu Ung đến
Giao Châu, trình lên vua Tống dể đề nghị Nam chinh. Vua Tống cũng
không thuận (cử chỉ này thật là ít có những vương triều Trung Quốc).
Tháng 8 năm sau là năm Đinh Tỵ (1007) nhà Tống sang sách phong cho
Long Đĩnh làm Giao Chỉ Quận Vương, lĩnh chức Tiết Độ Sứ ở Tĩnh Hải