VIỆT SỬ TOÀN THƯ - Trang 56

Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời

Lạc Vương ta không thể quên chữ Kinh và Dương là đất Dương, hai châu
thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng
vậy. Danh hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh
Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương, Hán
Đế…nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân
lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu.

Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết

Giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu,
Tây Âu…

Như trên đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do

một nhà quý tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở
lấy chữ Hùng làm hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng làm theo các
vua nước Sở, tỷ dụ:

Hùng Dịch (1122-1028 tr T.C)
Hùng Nghệ (1078 tr T.C)
Hùng Đán (1052 tr T.C)
Hùng Thắng ( 1001 tr T.C)
Hùng Dương (946 tr T.C)
Hùng Cừ (887 tr T.C)
Hùng Chấp (877 tr T.C)
Hùng Duyên (876 tr T.C)
Hùng Dõng (847-837 tr T.C) Và 18 ông vua của nhà Hồng Bàng lấy

hiệu như sau:

Kinh Dương Vương (Lục Dục Vương).
Lạc Long Quân (hùng Hiền Vương).
Hùng Lân (Hùng Quốc Vương).
Hùng Việt Vương
Hùng Hi Vương

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.